núi. Những kho đường, sữa, cà phê, phó mát, xúc xích, giăm bông, rượu
vang và các thứ rau khô cũng được tích trữ như thế cùng với những kho
súng đạn để quân Pháp ở Đông Dương đánh nhau hàng mấy mươi năm
cũng không lo gì. Ở nhiều tỉnh, các thứ gạo tám thơm người nghèo đừng
hòng mà đong. Muối phải chạy mua từ đầu tỉnh nọ sang cuối tỉnh kia mới
được mấy cân. Càng nhà nghèo càng phải cố sống cố chết lo trữ muối.
Đường thì chỉ còn vài hiệu khách to và vài cửa hàng lớn của Tây là còn,
nhưng chỉ để bán cho Tây. Sữa cũng thế. Và thuốc phiện. Thuốc phiện đắt
lên gấp năm. Công nhân ăn no nê một ngày cả quà sáng quà trưa mất có
năm hào, thì một điếu thuốc phiện cũng năm hào. Nhiều thằng Tây cai
ngục, kiểm lâm, thanh tra đoan, thanh tra mật thám, sáng ra phải hút một
chặp hàng ba mươi điếu thuốc với hai bàn đèn hai người tiêm, vừa dứt điếu
này tiếp ngay điếu khác, thì mới mở được mắt và mới ăn sáng được. Lễ
những bọn này, đầu vị là tiền và thuốc phiện.
Rồi vàng... Các hiệu khách hàng vàng to phải làm vội thêm lần cửa
sắt, mỗi ngày chỉ mở tiếp khách mua bán từ chín giờ đến mười hai giờ trưa.
Vàng Hồng Kông, vàng Xiêm chạy vào Hải Phòng cứ từng giờ, từng giờ
lên một giá hay ngược lại. Các hàng đổi bạc tha hồ tăng giá "các". Giấy
một trăm đồng hình bà đầm xòe đổi cho người có bạc lẻ, có tiền xu, được
"các" thêm hai mươi đồng. Giấy hai mươi đồng, giấy năm đồng khổ to
cũng được "các". Muốn mua vàng phải có những giấy bạc to. Tiện nhất là
mua vàng bằng văn tự nhà, văn tự đất. Để lễ các quan to, chạy các công
việc lớn, chỉ có vàng, phải có vàng. Từ toàn quyền, thống sứ, công sứ,
chánh tòa thượng thẩm, chưởng lý, chánh cẩm mật thám chính trị... đều chỉ
thích ăn vàng, đòi ăn vàng... ăn cả xuyến vàng, kiềng vàng, ông phỗng
vàng, chim cò, sư tử hổ báo vàng.
Bởi vậy còn cả những chuyện, những tin đồn có những tay giật luôn
hai bằng tiến sĩ, hay đỗ thạc sĩ đầu bảng ở Ba Lê, hay đỗ đốc tờ lưu trú cừ
nhất ở bên Anh, Mỹ về, vừa được ông nhạc, bà nhạc quẳng cho hàng ki lô