Trong thời gian Pháp chiếm đóng Việt Nam, các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An
và Hà Tĩnh nằm trong vùng Việt Minh kiểm soát nên các giáo xứ thuộc các
tỉnh này bị kìm kẹp gắt gao. Sau khi hiệp định Genève được ký kết, giáo
dân các giáo xứ trong vùng Việt Cộng kiểm soát không thể di cư được. Bị
xiết chặt quá lâu, vào đầu năm 1956, các giáo dân thuộc các giáo xứ Vạn
Kim, Quang Trung, Minh Châu, Tân Nho, Diễm Tân, Diễm Đức, Diễm
Đông, Diễm Nguyên, Yên Trung, Đức Vinh, Hồng Thăng và Đại Gia ở
Nghệ An đã triệu tập một đại hội, có mời đại diện chính quyền đến tham
dự. Trong đại hội này, giáo dân đã bất thần đưa ra một bản kiến nghị gồm 4
điểm sau đây :
1. Trả lại tất cả các linh mục đang bị bắt bớ giam cầm.
2. Trả lại xác các linh mục đã bị hành quyết hay thủ tiêu.
3. Trả lại các tài sản của Giáo Phận, giáo xứ và đền Đức Mẹ đã bị chính
phủ tịch thu.
4. Đền bù xứng đáng danh dự của các giáo sĩ và giáo dân bị nhục mạ và phỉ
báng.
Kiến nghị này được lập thành 5 bản gởi cho Tòa Thánh Vatican, Hồ Chí
Minh, Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến và Chính quyền miền Nam.
Đến ngày 9.11.1956, khi hay tin ủy Hội Quốc Tế sắp đi qua Cầu Giát, hàng
ngàn giáo dân kéo ra nằm ở trên quốc lộ 1, đưa hàng bao bố đơn thỉnh
nguyện xin được di cư. Sau đó họ tập trung tại làng Cẩm Trường mở hội
nghị. Bộ đội và công an kéo đến giải tán, hai bên xô xát nhau, chết khá
nhiều.
Sáng ngày 13.11.1956, giáo dân thành lập những toán nghĩa quân võ trang
tập họp tại Quỳnh Lưu, kéo đi biểu tình biểu dương lực lượng. Khoảng
3.000 thanh niên ở Ba Làng, Do Xuyên và Nông Cống ở Thanh Hóa bí mật
kéo vào yểm trợ. Thanh niên các vùng khác cũng kéo tới cứu viện. Trước
tình thế này, Hồ Chí Minh ra lệnh cho Văn Tiến Dũng huy động các lực
lượng quân sự ở Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Đồng Hới vây đánh và Quỳnh
Lưu ngập chìm trong máu lửa. Nghĩa quân không kháng cự nổi phải chạy
vào rừng. Bộ đội tiến vào làng bắt cả đàn bà và trẻ con dẫn đi để tra khảo
từng người xem ai chủ xướng vụ nổi loạn này. Các linh mục bị đưa về giam