thế Tướng Nguyễn Văn Chuân. Hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn
Cao Kỳ đã năn nỉ Tướng Tôn Thất Đính giải quyết giúp vụ miền Trung vì
tin rằng Tôn Thất Đính cũng là một con gà của Phật Giáo, có thể làm công
việc đó được Nhưng khi đến Huế, Tướng Đính lại theo phe Thích Trí
Quang và chửi hai tướng Thiệu-Kỳ giữa ba quân.
Ngày 17.4.1966, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng bắt giữ ông Nguyễn
Hữu Chi, Tỉnh Trưởng Quảng Nam và ông Quận Trưởng Hòa Vang cùng
một số người được coi là thân chính phủ Nguyễn Cao Kỳ. Tại Đà Lạt, Lực
Lượng bắt giữ Đại úy Quân Vụ Thị Trấn, đốt quân xa và đuổi đánh quân
cảnh. Quân đội phải nổ súng.
Khi thấy nhóm Phật Giáo cực đoan quá lộng hành, Khối Công Dân Công
Giáo và các tổ chức đảng phái đã lên tiếng phản đối một cách mạnh mẽ.
Thượng Tọa Thích Liễu Minh thuyết pháp tại Viện Hóa Đạo, khen ngợi
thiện chí của chính quyền và yêu cầu Phật tử ngưng các cuộc bạo động,
ngưng đòi hòa bình vì chưa đúng lúc. Khối Công Dân Công Giáo biểu tình
ở Đà Nẵng, Thủ Đức và Saigòn chống các cuộc bạo loạn ở miền Trung, tố
cáo chính phủ nhu nhược và đả đảo Đại Sứ Cabot Lodge. Tổng Hội Sinh
Viên Saigòn lập Ủy Ban Bảo Vệ Tổ Quốc và Dân Quyền, chống lại các vụ
lộng quyền tại các tỉnh miền Trung.
Ngày 21.5.1966, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng cho tung ra tại Huế, Đà
Nẵng và Saigòn một loạt truyền đơn thăm dò. Truyền đơn kêu gọi đưa
Thượng Tọa Thích Trí Quang ra làm Quốc Trưởng và Trần Quang Thuận
làm Thủ Tướng. Truyền đơn này cho thấy rõ mục tiêu và tham vọng của
nhóm bạo động. Các cuộc náo loạn tại Huế, Đà Nẵng và Đà Lạt vẫn tiếp
tục.
Báo chí Mỹ mở chiến dịch ca tụng Thượng Tọa Thích Trí Quang như là
một lãnh tụ chính trị lỗi lạc của Việt Nam, có thể trở thành Quốc Trưởng.
Mục tiêu của chiến dịch này nhằm thúc đẩy các lực lượng đấu tranh võ
trang tiến xa hơn một chút nữa, gây náo loạn và bất mãn trong quần chúng
để Tướng Kỳ có lý do xử dụng quân đội đánh dẹp. Cả Thượng Tọa Thích
Trí Quang lẫn Võ Đình Cường đều không ý thức được chiến dịch thâm
hiểm đó, đã thừa thắng xông lên. Đại Tá Đàm Quang Yêu, Tư Lệnh Biệt