● Lại thua trí nhà cầm quyền
Thượng Tọa Thích Huyền Quang đã nhiều lần khiếu nại việc sát nhập Giáo
Hội Phật Giáo Ấn Quang vào Giáo Hội quốc doanh, khởi đầu là "Đơn xin
cứu xét nhiều việc" đề ngày 26.5.1992 gởi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt
Nam. Trong văn thư số 248-CV/TGCP ngày 25.7.1993 trả lời Hòa Thượng
Huyền Quang, Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã giải thích những sự việc xẩy ra
như sau:
"Tháng 11.1981, Đại Hội Phật Giáo Thống Nhất đã họp gồm 165 đại biểu
của ba tổ chức lớn là Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam (miền Bắc),
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (miền Nam), Ban Liên Lạc Phật
Giáo Yêu Nước thành phố Hồ Chí Minh, cùng 6 tổ chức hệ phái đã thông
qua Hiến Chương và văn kiện thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam với
Hội Đồng Chứng Minh do Hòa Thượng Thích Đức Nhuận làm Pháp Chủ
và Hòa Thượng Thích Đôn Hậu làm Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật. Chính
Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Viện Trưởng ViệnHóa Đạo cùng các vị trong
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất từ trung ương đến địa phương
đã đóng góp tích cực trong việc thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
(quốc doanh) nên Hòa Thượng đã được cử làm Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và đã thực hiện được nhiều công việc Phật
sự hoằng dương Phật Pháp.
"Như vậy 9 tổ chức và hệ phái Phật Giáo đã cùng nhau xây dựng Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam, được pháp luật công nhận. Từ đó Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam trở thành tổ chức thống nhất hợp pháp của toàn thể Phật Giáo
Việt Nam trong cả nước.
"Vậy mà ông đã đi ngược lại sự nghiệp đoàn kết thống nhất Phật Giáo.
Ông đã dùng những lời lẽ nặng nề, xuyên tạc lịch sử, cho rằng thắng lợi
của sự nghiệp hòa hợp đoàn kết Phật Giáo năm 1981 là "pháp nạn thứ hai"
sau pháp nạn thứ nhất năm 1963 khi chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp
Phật Giáo đẫm máu... "
Điều 3 luật số 102/SL ngày 20.5.1957 về lập hội đã ghi rõ: "Để bảo đảm
việc lập hội có mục đích chính đáng, lập hội phải xin phép". Điều 1 Chỉ thị
1 ngày 05.01.1989 của Hội Đồng Bộ Trưởng cũng khẳng định: "Những hội