như cho rằng những thông tin ông có được từ trước tới giờ đã là đầy đủ.
Nhưng ông đổi thái độ chỉ qua một đêm"(151).
Thực ra, do công tố viên phản đối, thẩm phán Byrne đã để cho tôi quyết
định. Chiều ngày 26-4, ông cho mời vào phòng xử án tất cả các bị cáo và
luật sư bào chữa. Với David R. Nissen, ông nói rằng ông đã đọc hết những
nội dung trong phong thư dán kín Nissen trao cho ông và đi đến kết luận
ông không nên giữ cho riêng mình những thông tin đó. Ông hỏi Nissen xem
anh ta đồng ý chuyển cho bên bị cáo hay không. Nissen trả lời phải hỏi ý
kiến cấp trên ở Bộ Tư pháp và đến sáng hôm sau, câu trả lời là không nên.
Lúc đấy Byrne mới yêu cầu Tony, tôi và các luật sư của cả hai bên tiến lại
gần chỗ ông, tránh để các nhà báo nghe thấy và yêu cầu Nissen phải giao
tài liệu đó cho bên bị cáo ông nói rằng chúng tôi có quyền được biết thông
tin này và có quyền yêu cầu một cuộc điều trần tương ứng.
Tôi còn nhớ khá rõ giờ phút ấy, đặc biệt bởi vì đó là lần đầu tiên trong vòng
hai năm xét xử, ngài thẩm phán nhìn trực diện và trao đổi trực tiếp với tôi.
Trước đây, tất cả các thông điệp tới bên bị cáo dcu được chuyển qua các
luật sư. Tôi không nhớ là từ trước tới nay có lần nào ông nhìn thẳng vào
mắt tôi hay không.
Ông nói với tôi là: "Ông Ellsberg, tôi có lẽ không cần phải công khai thông
tin này. Chúng tôi có thể giữ kín nếu ông muốn". Tôi hiểu điều ông ta nói
có nghĩa là tôi không muốn để mọi người biết mình đang được điều trị tâm
thần (tạp chí Times đã tiết lộ thông tin này cho mọi người, trong đó có Hunt
từ hai năm trước).
Tôi đáp lại: "Ngài đang đùa hay sao? Đưa nó ra đây đi!"
Đây là những lời nói đầu tiên của tôi trực tiếp với quan toà kể từ sau tuyên