con chó, ói ra phô mai thúi và sữa chua và một đống sên đói.
Với cái nồi sát một bên, cậu phù thủy không thể nào ngủ hay ăn, nhưng cái
nồi không chịu bỏ đi, và cậu không thể nào làm cho nó đứng yên hay khiến
nó im lặng.
Cuối cùng cậu phù thủy không thể nào chịu nổi nữa. Cậu gào:
“Hãy đem đến ta tất cả phiền toái, tất cả rắc rối, tất cả khổ đau của các
người!”
Cậu chạy vào đêm tối, cái nồi lót tót nhảy theo sau trên con đường vào
làng.
“Cứ đến! Để tôi chữa lành các người, hồi phục các người, và khuyên giải
các người! Tôi có cái nồi hầm của cha tôi, và tôi sẽ chữa cho mọi người
khỏe mạnh!”
Và cậu vừa chạy trên đường cái vừa ếm bùa ra tứ phía thập phương, trong
khi cái nồi hôi hám vẫn nhảy tưng tưng theo sau cậu.
Bên trong một căn nhà, mấy cái mụn cóc của cô gái nhỏ biến mất tiêu khi
cô bé ngủ; con lừa được triệu về từ bãi cỏ thạch nam ở rất xa và được nhẹ
nhàng đặt vào chuồng của nó; đứa bé bị bệnh được rảy nước cây bạch tiễn
và tỉnh lại, hồng hào và bụ bẫm. Ở mỗi ngôi nhà có bệnh tật và khổ đau,
cậu phù thủy đều ráng hết sức mình, và dần dần cái nồi bên cạnh cậu thôi
rên rỉ và nôn ọe, trở nên im lặng, sạch sẽ, bóng láng.
“Sao hả, nồi?” Cậu phù thủy mệt run hỏi, trong lúc mặt trời bắt đầu mọc
lên.
Cái nồi ợ ra một chiếc dép lẻ mà cậu đã quăng vào nồi, và cho phép cậu
mang nó vào cái chân đồng vừa khít. Cả hai cùng nhau lên đường trở về