bằng chứng. Về phần Latex, có bằng chứng là công ty này đã lên
kế hoạch tỉ mỉ để tìm thuê Wohlgemuth; về phần Wohlgemuth, anh
từng tuyên bố với Galloway về cái giá của lòng trung thành và
đạo đức. Đó chính là bằng chứng cho những ý định xấu xa của họ.
Bên biện hộ phản bác luận điểm cho rằng việc tiết lộ các bí mật
là không thể tránh khỏi và dĩ nhiên bác bỏ ý đồ xấu xa từ cả
hai người. Vụ kiện khép lại với lời tuyên thệ của Wohlegemuth
tại tòa: “Tôi sẽ không tiết lộ [cho Tập đoàn Quốc tế Latex] bất
kỳ thông tin nào mà trong thâm tâm tôi coi đó là bí mật thương
mại của công ty B.F. Goodrich”. Dĩ nhiên, đó là điều an ủi nhạt
nhẽo đối với Goodrich.</p>
<p class="calibre2">Sau khi nghe bằng chứng và tổng kết của các
luật sư, thẩm phán Harvey lùi phán quyết sang một ngày khác và
đưa ra án lệnh tạm thời, cấm Wohlgemuth không được tiết lộ
những bí mật đã cáo buộc hoặc làm việc cho chương trình trang
phục không gian của Latex; anh được phép làm việc cho Latex,
nhưng phải đứng ngoài bộ phận nghiên cứu trang phục không gian
cho đến khi quyết định của tòa án được tuyên. Vào giữa tháng
Mười hai, Wohlgemuth để gia đình ở lại và đến Dover bắt đầu làm
việc cho Latex với những sản phẩm khác. Đầu tháng Một, anh bán
nhà ở Wadsworth, mua một ngôi nhà mới ở Dover và cả gia đình
lại đoàn tụ trong ngôi nhà mới.</p>
<p class="calibre2">Ở Akron, các luật sư tiếp tục tranh cãi
bằng những luận cứ của mình với mục đích làm lung lạc thẩm phán
Harvey. Nhiều điểm tinh túy trong bộ luật đã được đưa ra tranh
luận, được làm sáng tỏ nhưng không đi đến hồi kết; nhưng khi
các luận cứ vẫn tiếp tục được đưa ra, người ta càng thấy rõ
ràng bản chất của vụ án cũng khá đơn giản. Nói chung thì hầu
như không có tranh cãi về mặt cơ sở lập luận; nhưng điểm tranh
cãi lại nằm ở câu trả lời cho hai câu hỏi: Thứ nhất, có đúng
đắn không khi chính thức cấm một người tiết lộ các bí mật
thương mại khi anh ta chưa có biểu hiện gì về hành vi ấy và còn
chưa biết là anh ta có ý định đó hay không; thứ hai, có đúng
không khi ngăn cấm một người làm một công việc nào đó chỉ thuần
túy bởi vì công việc đó mang đến những cám dỗ kỳ cục để khiến
anh ta vi phạm pháp luật. Sau khi nghiền nát tất cả sách luật,
luật sư biện hộ đã tìm ra được đoạn trích chính xác mà họ cần
để chứng minh cho lập luận rằng đáp án cho cả hai câu hỏi trên
đều là “Không”. (Không như quyết định của các phiên tòa, những
kết luận chung trong các sách giáo khoa luật không có thế đứng
chính thức trong bất kỳ tòa án nào. Nhưng nếu biết sử dụng
chúng một cách khôn ngoan, người biện hộ có thể mượn lời người
khác để bày tỏ ý kiến riêng của mình và củng cố thêm luận điểm
đó bằng cách dẫn chiếu từng thư mục). Đoạn trích từ cuốn <em
class="calibre5">Bí mật kinh doanh</em> do luật sư Ridsdale
Ellis viết và được xuất bản năm 1953 viết: “Thông thường, không