Nhưng ở đây cần lưu ý, bắt vợ ở người H’mông là khá hiếm hoi, cụ Ma Khái Sò 84
tuổi (thời điểm năm 2013), từng tham gia vào bộ máy hành chính nhiều năm, là người đi lại
nhiều, quen biết rộng mà trong đời ông chỉ chứng kiến có hai vụ bắt vợ ở vùng cao nguyên
đá. Vì thế, bi kịch lớn do bắt dâu gây ra, luôn tồn tại, nhưng là không phổ biến trong xã hội
H’mông. Bắt vợ tựa như hành động cướp người trắng trợn, "hôn nhân bắt cóc" luôn kéo
theo nhiều bi kịch.
Cả kéo vợ và bắt vợ, đều không bị cộng đồng H’mông coi như là một tội ác nếu nó
đáp úng đầy đủ các yêu cầu dàn xếp của hai gia đình liên quan. Trái lại, hình thức Cướp vợ
(Cxangr pox niêv) thì bị người H’mông coi như một tội lỗi, mà hình phạt nhiều khi là
khuynh gia bại sản hay đánh đổi tính mạng. Để hiểu hơn tục lệ này, chúng ta hãy cùng nhau
xử lí hai tư liệu hồi cố sau:
Câu chuyện cướp vợ số 1:
Cách đây hơn 80 năm, ông chú cụ Ma Khái Sò là Ma Mí Vu vốn là người thổi khèn hay
, nhảy giỏi.
Trong một lần ông Vu đi chợ tình ở Lũng Hồ, tài khèn của ông đã chinh phục bà Lù Thị Mai. Bà Mai say
tiếng khèn ông Vu theo ông về làm vợ (theo tục kéo vợ). Được ba ngày, người ta đến kiện. Hóa ra, bà Vu đã
nhận lễ dạm hỏi của người khác là một đôi xà cạp. Kéo người đã có nơi có chốn dạm hỏi, dù vô tình, nhưng
ông Vu đã phạm lỗi. Khi ấy, hành động ông Vu không còn thuộc tục kéo vợ mà chuyển sang cướp vợ. Cướp
vợ, đó là một lỗi nặng, theo lệ bị phạt vạ rất lớn. Vụ kiện này lớn đến mức lên tới hàng tổng, cả tổng Yên
Minh và tổng Quản Bạ phải tham gia dàn xếp. Vào thời điểm ấy, gia đình ông Vư bị phạt vạ 1 đôi bò, 120
đồng bạc già (Đông Dương). Ông Vu bà Mai thành vợ chồng nhưng kết quả gia đình đã khánh kiệt
Bình luận: câu chuyện này nói tới trai gái tự do yêu nhau ở chợ tình Du Già, mà sau này ta sẽ gặp lại
phiên chợ đặc biệt này. Và tục lệ xử phạt nặng cướp vợ, bởi đó là một hành vi nghiêm trọng, phá vỡ các giao
ước trong xã hội H’mông. Cần phạt vạ nặng để kẻ khác không dám tái phạm. Một xã hội duy trì bằng luật
tục, giao ước là nền tảng, để duy trì hiệu quả các giao ước, người ta cần các hình thức đảm bảo chắc chắn các
giao ước ấy không bị xâm phạm, phá vỡ. Phạt vạ nặng là một răn đe hữu hiệu. Nhưng riêng với bà Mai, một
phụ nữ H’mông truyền thống, dù đã bị hôn ước đặt định, đã nhận lễ vật người khác nhưng bà vẫn không bị
ràng buộc khi tìm thấy và trở thành vợ người mình yêu. Dù trả bằng một giá khá đắt, đến khuynh gia bại sản,
nhưng đôi trai gái H’mông cuối cùng vẫn thành vợ thành chồng.
Câu chuyện cướp vợ số 2:
Chuyện xảy ra trước khi nhà sưu tầm dân ca H’mông Hùng Đình Quí ra đời khoảng vài năm (khoảng
1930). Khi lớn lên, ông được nghe người khác kể lại. Ngay canh nhà cụ Quí, ở Tùng Vài - Quản Bạ, có
trường họp người đàn ông đến rủ rê người đàn bà đã có chồng bỏ trốn theo tục cướp vợ. Không may mắn, họ
bị bắt lại và người chồng có vợ bỏ trốn đã đưa ra một hình phạt khủng khiếp. Anh ta bắt trói đôi trai gái ngồi
trên ghế, úp mặt vào nhau. Sau đó, anh ta nung một lưỡi cày nóng đỏ dí vào mông đôi "gian phu dâm phụ"
tội nghiệp. Đôi trai gái mỗi lẫn bị tra tẩn thì càng ép sát người vào nhau, theo thế đối mặt "giao hợp" và kết