NHỮNG ĐỈNH NÚI DU CA - Trang 138

tù người chồng bị "cắm sừng" trên vì anh ta gây tội giết người. Cộng đồng H’mông thì trái lại, không thấy

nói đến việc xử phạt kẻ giết người kia. Những cây cột đá bí ẩn của Sùng Chứ Đà ở Đường Thượng, một

trong những truyền thuyết về nó có lớp nghĩa dùng để tra tấn các đôi trai gái vướng tục cướp vợ người khác

như trên.

Tương truyền đây là một hình cụ của vị vua Mèo Đường Thượng khét tiếng - một thời dùng để hành

hình trai gái mắc tội cxangr pox niêv. Đôi trái gái khốn khổ sẽ bị xâu tay qua lô, úp mặt ôm cột đá và phơi

ngoài trời đến chết.

Cũng như trường hợp bắt vợ, các trường hợp cướp vợ là khá hiếm gặp ở xã hội

H’mông cổ truyền. Ngày xưa, cướp vợ thì đành phải trốn biệt xứ, đó là một hình thức đẩy
người H’mông đến di dân. Đôi trai gái yêu nhau khi đã có gia đình, rủ nhau bỏ trốn theo tục
cướp vợ có khi trốn sang tận Lào, Thái Lan mới mong an toàn. Ngày nay, bắt vợ và cướp
vợ đã dần biến mất, còn kéo vợ thì vẫn còn rất phổ biến. Căn nguyên dân tộc học sâu xa
của các tục lệ này là khá phức tạp, một soi chiếu tục lệ này trên diện rộng các tộc người ở
Việt Nam sẽ trả lời cho hệ ý nghĩa việc các tục lệ kiểu này được duy trì. Thực ra, hôn nhân
kiểu "cướp vợ", được coi như biến thể của các kiểu hôn nhân bắt cóc, nguồn gốc của xung
đột giữa các tộc người từng rất phổ biến được các nhà nhân học nói đến (Lowie 2001: 41-
42). Ở Việt Nam, có thể kể ra đây hình thức cướp vợ được nói đến nhiều trong các sử thi, là
nguồn gốc của chiến tranh. Sử thi Việt Nam, từ Tây Bắc đến Tây Nguyên, người anh hùng
bao giờ cũng có một con đường lấy vợ phổ quát là tiến hành chiến tranh nhằm cướp đoạt
các cô vợ đẹp xinh của các tù trưởng hùng mạnh đối thủ. Ở người Việt, cướp dâu ghi nhận
được cả ở folklore dân gian và thư tịch lịch sử. Ngoại thành Hà Nội, vùng Đông Anh, trong
tục vào đám hàng năm của một làng, có ghi được dấu ấn của tục lệ cướp vợ. Làng cử ra
một cô gái xinh đẹp đóng vai Mị Nương. Cô phải ra làng ở, ăn chay nằm mộng bảy ngày
bảy đêm. Trọng tâm buổi lễ của làng là diễn tả lại chế độ cướp vợ (lược hôn) khi xưa.
Trong buổi lễ, chàng trai đóng vai chú rể có nhiệm vụ nấp ở dưới ao, ven các luống khoai
nước, bất ngờ áp sát, cướp cô gái bỏ chạy. Dân làng đuổi theo, ném đất (vụn), bắn tên (cành
dâu), cho đến khi chàng trai đến được bên kia bờ ao thì kết thúc buổi lễ. Công việc cướp vợ
của chàng trai mà thành công là điềm báo một năm may mắn. Chẳng may, công việc cướp
vợ ấy trắc trở, chàng trai đánh rơi cô gái, thì làng coi đó là một năm bất hạnh, xui xẻo (Hà
Văn Cầu 1992: 22-23). Lịch sử Việt tộc lại ghi dấu một vụ "cướp vợ" nổi tiếng của Trần
Quốc Tuấn thông qua hành động "thông dâm" với Thiên Thành (con gái Thánh Tông). Các
sử thần phong kiến như Ngô Sỹ Liên, Ngô Thì Sỹ, Ngô Thì Nhậm, mang con mắt đậm đặc
chất Nho giáo Hán hóa, lấy làm bất bình với hành vi càn rỡ của Quốc Tuấn vì trái với thuần
phong mỹ tục Việt (Tiền biên 1997: 338). Tác giả Cương mục cũng bình luận về "nết xấu"
ở con người văn võ toàn tài này: hành vi "tư thông" của của Tuấn và Thiên Thành là "có lẽ
thói chung chạ của nhà Trần đã ăn sâu vào đầu óc người ta" (2007 T.1: 453-454)

[121]

. Sử

gia hiện đại Tạ Chí Đại Trường lại bình: ngờ rằng đã có xen vào việc trả thù nhà (Tạ Chí

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.