chuyện với nhà gái. Nhà gái mang rượu ra và cùng nhà trai uống. Sáng hôm sau bên nhà
trai giết lợn gà mời bà con đến ăn uống. Sau 3 ngày hai vợ chồng về nhà vợ, mang theo 4
con gà. Hai vợ chồng phải ở lại nhà bố mẹ vợ 3 ngày rồi mới được về" (Vương Hoàng
Tuyên 1963). Vương Hoàng Tuyên gọi đó là "hôn nhân cướp đoạt" của người Khùa. Như
vậy, cái tục lệ Khùa mà Vương Hoàng Tuyên cho là hình thức hôn nhân cướp đoạt là tương
ứng với cấu trúc kéo vợ H’mông. Nguyên tắc của tục lệ này là hành vi kéo/cướp bao giờ
cũng phải mang tính tượng trưng. Biến thể xa của tục kéo/bắt/cướp vợ còn ít nhiều tồn tại ở
người Dao (nhóm Thanh Y), người Giáy, người Bố Y... trong đám cưới bao giờ cũng có
hành vi tượng trưng kéo dâu. Nhưng tóm lại, tồn tại cho đến ngày nay, các tục lệ liên quan
đến kéo/bắt/cướp vợ chỉ ở người H’mông là vẫn thấy tồn tại rõ nét
Tóm lại, dù là hoạt động kéo/bắt/cướp vợ tượng trưng hay hiện thực thì cũng vẫn thấy
được tính logic ngầm ẩn trong vấn đề này. Với người H’mông, tộc người đã giành lại được
sự sống, niềm tự do và hạnh phúc trong tranh đấu ngàn năm thì luôn tồn tại trong niềm tin
và hành động tộc người một tâm lí quẫy đạp để thoát ra ngoài mọi ràng buộc, đường cùng.
Nên, với người H’mông luôn luôn có cơ hội cho những kẻ dám hành động, dấn thân, quyết
đoán nhiều khi là liều lĩnh và nguy hại để tìm lấy cho mình đường sống. Cái tinh thân
thượng võ, mến chuộng tự do của tộc người hẳn đã núp đằng sau tục kéo/bắt/cướp vợ nổi
tiếng. Kéo/bắt/cướp vợ cũng là một hình thức nổi loạn chống lại số phận bị đặt định, sự nổi
loạn quen thuộc đã làm cho H’mông trở thành tộc nổi tiếng. Một tộc người không phải là
lớn (đứng thứ 8 về số dân ở quốc gia Việt Nam), nhưng tổng số vụ nổi loạn trong lịch sử thì
luôn vào loại nổi bật. Hơn nữa, dân tộc học đã cung cấp những dữ kiện xác đáng cho biết
rằng phần lớn những vụ kéo dâu (cái phổ biến nhất của kiểu tục lệ này) đều có sự đồng ý
của kẻ bị kéo là cô dâu. "Thủ phạm" và "người bị hại" vì yêu nhau mà gia đình ngáng trở,
đã cùng thông đồng nhằm tạo ra "kịch cảnh" để có thể mưu cầu một mái ấm chung. Hạnh
phúc do đó, là cái hành động để dành lấy chứ không phải bị động ngồi chờ đợi.
Người H’mông, tộc người luôn đề cao tự do tính bởi cấu trúc tâm tính bất khuất lại
phải thường roi vào thân phận ăn nhờ, ở dợ, không quê hương. Một tộc người như vậy sẽ
luôn ý thức thường trực cái quí giá của sự tự do. Mà đến cùng, tộc người nào chẳng yêu
mến tự do, nhưng với người H’mông, với cá tính mãnh liệt nên ý thức khao khát tự do càng
trỗi mạnh. Nên, trong cấu trúc tâm lí tộc người mà số phận văn hóa đã phản ánh vào luật
tục kéo vợ những dữ kiện thể hiện "tính dân chủ tộc người" đáng kể. Kéo/bắt/cướp vợ, tổ
hợp văn hóa đặc biệt này, dù sự vụ khó khăn và có thể bất thành, hiểm nguy, nhưng vẫn cho
thấy ở tộc người này luôn tin tưởng rằng có lối thoát trong những tình thế "như đã rồi".
Không có điều gì là không thể thực hiện, miễn là phải dám hành động.
Cùng với "chợ tình", "kéo vợ" có lẽ là hai cách ứng xử tộc người độc đáo nhất của
H’mông, là đỉnh cao của sự dân chủ nếu như dân chủ được định nghĩa bằng niềm hạnh