Đại Trường 2004b: 277,278). Như vậy, (các biến thể) cướp vợ, trên bề nổi, có khi là mầm
loạn cho xã hội, kéo theo chiến tranh; nhưng ở bề ngầm ẩn, là khát vọng sở hữu "người nữ
chính thống", dấu ấn sót lại của văn hóa mẫu hệ với đặc trưng hiển lộ qua quyền lực người
nữ và hệ thống nữ thần; đồng thời, là sự phô trương sức mạnh nam tính của xã hội nam
quyền.
Theo các nhà lập thuyết marxism - những người ảnh hưởng thuyết tiến hóa trong nhân
học, cướp phụ nữ và dành lại phụ nữ bị cướp là chuyện thường xảy ra trong lịch sử thời cổ.
Engels cho biết, tục cướp đàn bà là lệ thường ở nhiều miền. Engels còn cho rằng tục cướp
phụ nữ là một giai đoạn tất yếu của lịch sử hôn nhân thời cổ, giai đoạn chuyển từ hôn nhân
tập đoàn sang hôn nhân từng đôi: "Vả lại, việc cướp đoạt đàn bà cũng là vết tích của bước
chuyển sang chế độ hôn nhân cá thể, ít nhất cũng là dưới hình thức hôn nhân đối ngẫu"
(Engels 1972: 70). Các nhà nghiên cứu ngữ văn marxism, do đó, lí giải các vụ việc cướp vợ
(như trong sử thi) dựa trên kiến giải của Engels (Phan Đăng Nhật và...2005: 60; Lê Trung
Vũ 2012: 30). Nhà dân tộc học Soviet, ông Kosven ở chỗ này dường như ngược với Engels
khi quả quyết cướp vợ (hôn nhân cướp đoạt) chỉ có thể là một hình thức kết hôn ngoại lệ,
không phổ biến. Theo ông, cướp vợ ngầm chứa ẩn sự xung đột có thể phá vỡ tồn tại các bộ
lạc, vì thế, không thể trở thành một tập quán. Và hôn nhân cướp vợ, không thể nói nó có sự
đồng ý của người bị cướp, vì thế, tự nó đã ngầm chứa đựng sự bất hợp lý (Kosven
2005:199-200).
Còn về tục kéo vợ, cũng thấy tồn tại trong các xã hội khác H’mông. Ở người Thái, từ
những tư liệu lịch sử của họ cho biết, xưa kia ở Mai Châu, nếu đôi bên trai gái yêu nhau mà
bị nhà gái ngăn cản, xã hội Thái Mai Châu xua chấp nhận tục tổ chức cướp người yêu (pê
thăng). Đã hẹn hò với nhau từ trước, buổi chiều, người con trai đến nhà cô gái đã đợi sẵn và
đón đi. Trước khi đi cô gái đặt miếng trầu và đồng tiền, hay ít gạo vào chiếc ninh đồ xôi,
hoặc chỗ cửa ra vào. Khi cô con gái trốn, người nhà tìm cách đuổi theo. Cuộc đuổi bắt chỉ
là hình thức. Người nhà thanh minh với làng bản là con họ bị hổ bắt vào rừng. Người trong
bản không ai muốn đuổi bắt. Người con gái về nhà trai, ở hai ba ngày, và làm lễ nhận họ ở
đó. Sau đó, chàng trai dẫn cô gái về nhà vợ và xin ở rể. Nếu nhà gái không đồng ý, chàng
trai cứ ở lì cho đến khi nhà gái nhận mới thôi. Trường hợp cướp dâu, nhà gái không được
phép ra điều kiện làm cưới to, tốn kém (Đặng Nghiêm Vạn 1977: 336) (Nhiều tác giả 1988:
86-87). Như thế, cách miêu tả các tác giả về tục cướp dâu của người Thái đen thực ra khá
tương đồng, cùng cấu trúc với tục kéo vợ của người H’mông. Chỉ có điều, tục lệ nhân bản
này đã biến mất khỏi xã hội Thái từ lâu còn ở xã hội H’mông thì vẫn bền vững. Ở người
Khùa, Vương Hoàng Tuyên khi viết về hôn nhân và gia đình cho biết tục lệ: "Người con
trai đi nhờ một số bạn trai và gái đang đêm đến nhà cô dâu nấp quanh nhà và một người gọi
cô dâu ra có việc và liền dẫn cô dâu đến nhà hai. Sáng hôm sau hai người bên nhà trai đến
nhà gái đem theo một thanh kiếm, một chuỗi hạt cườm để ở trên sàn chỗ tiếp khách rồi nói