bản ở các phần sau là "chợ tình" và "quan niệm tình yêu" của người H’mông, ở đấy, luôn
luôn chúng ta sẽ ghi nhận được một bầu không khí tương đối tự do và bình đẳng của văn
hóa tộc người dành cho phụ nữ. Có thể nói, quá lời lên một chút, đấy thực sự là đỉnh cao
của dân chủ tộc người của nhiều tộc người vùng cao. Trong đó, H’mông tộc là một đại
diện. Ở ý nghĩa này, thân phận người phụ nữ H’mông trong cấu trúc xã hội nam quyền luôn
lóe lên nhiều điểm sáng. Quan niệm này nhằm phản bác lại quan điểm khiên cưỡng của các
nhà marxism nghiên cứu dẫn ca làm dâu H’mông, vừa suy diễn, vừa chỉ thấy mỗi một lớp
nghĩa văn bản. Trong "tưởng tượng" của họ, người phụ nữ H’mông sống trong xã hội cổ
truyền hiện lên với đầy những vẻ bi thương, tăm tối mà dường như không bút mực nào kể
xiết cái khốn khổ của cuộc đời cũ
. Từ đấy, họ kết luận vội vàng (hay chủ ý?!) về đời
sống đầy tối tăm của người phụ nữ H’mông trong xã hội "cũ" (phong kiến!). Và do đó,
người phụ nữ H’mông sẽ chỉ được giải phóng khi có "ánh sáng" của "cuộc đời mới", của
Đảng (!?)
(Tô Hoài 1965). Hoặc một lối khác, những suy diễn thái quá từ phòng giấy,
và nữa là kết luận về ngữ văn học tộc người vội vã theo quán tính của mình đã đẩy những
kết luận đi rất xa bản chất. Đã qua rồi cái thời của nghiên cứu tộc người phòng giấy, nhưng
ở Việt Nam, thì nghiên cứu các vấn đề tộc người từ phòng giấy vẫn tồn tại (thậm chí phổ
biến?!). Đó là còn chưa nói, lẫn vào đó còn có nhiều "nghiên cứu" theo lối "đặt hàng" minh
họa - một lối mòn, dù biết là dễ sập bẫy ngộ nhận ý nghĩa, nhưng khó tránh của giới nghiên
cứu! Kết quả là hàng loạt ảo tưởng được chấp nhận. Hoặc đáng tiếc không kém, những
quan sát tộc người, nếu có, thì cũng đầy vội vã, nghiệp dư của màu sắc kinh nghiệm chủ
nghĩa mà thiếu phương pháp và trách nhiệm ở khối nghiên cứu folklore, dân tộc học. Chỉ
một vài chuyến đi lớt phớt lên miền núi, độ vài ngày, ở nhà nghỉ, ngủ khách sạn, ăn đặc
sản, thăm thú đây đó vài nơi, thế là: "thật đáng kể"! Chấm hết! Xem như người ta đã làm
xong một chuyến thực địa! Mà khi về các cơ quan, đơn vị nghiên cứu "chuyên môn" và
"hàn lâm", họ có thể tự hào đã hơn các đồng nghiệp, phần đông nghiên cứu miền núi nhưng
lại ngồi cắm rễ ở thành phố, là mình đã từng có "quan sát tham dự" đối tượng nghiên cứu.
Một ông bạn làm tộc người của tôi, khá chính xác khi mỉa mai mà gọi kiểu thực địa như
vậy là: "một cuộc điền dã chớp nhoáng"! Thêm một chiêu trò mới gần đây, ở Việt Nam, khi
phải nghiên cứu một vấn đề folklore, dân tộc học nào đó, như một lễ hội chẳng hạn, những
nhà nghiên cứu "đánh quả", sau khi móc nối ký được một đề tài "khẩm bạc" nào đó, liền bỏ
ra ít tiền cho dân bản xứ để họ tiến hành "phục dựng" lại lễ hội ấy. "Trò diễn" mang mác
"phục dựng" lễ hội ấy sẽ được các nhà nghiên cứu "chuyên nghiệp" đánh xe con lên miền
cao, lượn lờ về miền quê, ghi chép lại theo lối tốc ký, quay phim chụp ảnh ghi âm nhí
nhoáy, thêm vài bình luận mang tính "điển phạm" kiểu "tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc".
Thế là xong, về các "trung tâm", bỏ chút công sức biên soạn lại, vậy là the end, xuất bản
thôi những "công trình nghiên cứu khoa học". Như thế, thật không hiểu, những lễ hội khi
được/bị tách búng ra khỏi không - thời điểm văn hóa mang tính cụ thể thì nó có thể truyền
tải lại thông điệp gì?! Chúng ta biết, một cái đầu dù uyên bác như Frazer, thì những suy