hoạt, địa phương ấy do một thủ lĩnh cai trị có nhiều đặc quyền của lãnh chúa phong kiến, là
ông chủ đất đai và đem chia cho con dân khai thác: quyền lực ấy được thế tập" (Robequain
2012: 111). Quan lang Hòa Bình Quách Điều trên tạp chí Nam Phong cho biết, quyền thế
tập lang đạo Mường rơi vào 6 họ: Đinh, Quách, Bạch, Hà, Xa, Cao (Quách Điều 1925). Xã
hội Mường chia làm hai đẳng cấp rõ rệt là lang và dân. Về sự tách biệt của hai đẳng cấp
này, một cách đầy hình ảnh, Nguyễn Văn Ngọc trong bài viết vào loại sớm nhất, rất quan
trọng về "Mường học" của người Việt đã ví von, lang là hạng lên trời xanh còn dân thì bị
dìm hẳn xuống vực sâu (Nguyễn Văn Ngọc 1925). Còn ông quan lang Quách Điều thì phải
thừa nhận vị thế quan lang Mường "trên đối với vua (Việt - NMT), là tình cha đối với con,
dưới đối với người dân Mường, là nghĩa ông chủ thầy tớ" (Quách Điều 1925). Những xác
nhận của Robequain, Nguyễn Văn Ngọc và Quách Điều (cũng như nhiều người khác, đều
vào đầu thế kỷ XX mà tôi không dẫn ra đây), những người đã sống trải cùng văn hóa
Mường thời nó còn thịnh vượng có một ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu thiết chế
chính trị xã hội Mường mà nhà lang là hạt nhân quyền lực.
Nguyễn Văn Ngọc xác nhận về vị thế tự trị chính trị của nhà lang: "cái nhà lang thực
là một cái triều đình, cái đời lang thực là cái đời một ông vua nhỏ, trong một cái giang sơn
nhỏ trong rừng núi" (Nguyễn Văn Ngọc 1925). Điều này là quan trọng, bởi về từ nguyên
"mường" trong tâm thức người Mường (Mol - Muan - Mual) nghĩa đen nhằm chỉ khu vực
đất đai đứng đầu là một chúa đất, mường là một nước: "người ta có thể gọi Mường Bi,
Mường Vang nhưng cũng gọi Mường Keo (nước Việt Nam), Mường Hán (nước Trung
Quốc), thậm chí là Mường Liên Xô được" (Đặng Nghiêm Vạn 1975: 113). Quan sát từ bên
ngoài, người ta có thể thấy rằng cách hiểu mường là một nước, quốc gia là "không hợp lý"
(như Đặng Nghiêm Vạn), nhưng quan trọng, sự thực đã tồn tại trong tâm thức những người
Mường quan niệm mường bản của họ như một "đất nước". Và Nguyễn Văn Ngọc, để miêu
tả vẻ vương giả, uy nghiêm của các ông lang - "ông vua con" của nước "mường" đã dùng
bút pháp văn chương dân tộc chí có phong cách, miêu tả dài dòng nhưng sống động cái an
nhàn, quyền uy và vương giả của đời nhà lang
ở thung lũng núi rừng. Hơn thế, ông còn
cho biết một chi tiết rất quan trọng, cho đến đầu thế kỷ XX, những lời dụ của Minh Mệnh
với nhà Lang "chẳng có công hiệu gì", Tự Đức thì để họ tự trị, còn người Pháp dù muốn
gây ảnh hưởng đến xứ Mường nhưng sự thực "chưa thấm thìa được là bao" (Nguyễn Văn
Ngọc 1925). Bộ máy cai trị nhà lang, cả thế quyền lẫn thần quyền, dù khó mà đưa ra được
một cái nhìn mạch lạc, nhưng dẫu sao, vẫn cho phép đi đến kết luận về người Mường đã có
thể duy trì khá "hoàn chỉnh" bộ máy cai trị tương thích với chính trị "tiểu vùng" hiệu quả
đến trước 1945. Xã hội Mường nói chung, về cơ bản hình thành từ liên kết các hạt nhân
làng, bản và lớn hơn là các mường (gồm nhiều làng) khá hoàn chỉnh. Bản và kể cả mường
thường gắn liền với hiện thân người lãnh chúa. Mà nói như Cuisinier: "vì trước mắt người
dân quê, vị lãnh chúa là hiện thân của chính cái làng, vì người đó tượng trưng cho nguồn