cổ xưa, trên các lang cun còn có một lang tối cao là lang đá cần. Vị lang đá huyền thoại vì
thế, cũng như một vua Mường chỉ có trong truyền thuyết. Những điều tốt đẹp và vĩ đại về
lang đá cần trong truyền thuyết ấy, đã không thấy tồn tại trong hiện thực. Xã hội Mường sự
thực chỉ tồn tại bởi quyền lực các lang đạo, và trên họ là các lang cun. Tùy vào tiềm lực
kinh tế, quân sự của tùng lang đạo mà sự thuần phục lang cun là thực lớn hay tượng trưng.
Về lí thuyết, khi xã hội Mường gặp nguy biến, thường là những biến cố chiến tranh quan
trọng liên quan trực tiếp đến sự tồn vong tộc người thì các lang cun sẽ có sự liên kết quyền
lực với nhau để bảo vệ xứ Mường. Tuy thế, sự liên kết quyền lực người Mường các vùng,
cũng như người Thái, người H’mông là không bao giờ có sự thống nhất. Xã hội nào cũng
luôn tồn tại các nhóm quan điểm, và với sự xé nhỏ bởi các nhóm quan điểm ở các xã hội
thiểu số khiến họ càng nhanh suy yếu. Không phải ai khác, mà chính Phượng Vũ trong tiểu
thuyết Hoa hậu xứ Mường đã thật xuất sắc khắc họa lại đầy đủ các nhóm quan điểm khác
nhau giữa các ông lang lớn trong xã hội Mường thời Pháp đô hộ. Người Pháp lợi dụng
chính trị huyền thoại Mường để thiết lập nên một chức vị quan trọng tương đương kiểu
lang đá cần trong huyền thoại nhằm thống nhất "nhân tâm" toàn "xứ Mường tự trị". Nhưng
dù sao, chức danh mang tính hành chính ấy đã không bao giờ có được sức mạnh cố kết như
vị lang huyền thoại trong tâm thức Mường. Sự thực, quyền lực Mường rơi vào tay các vị
lang (thường là lang cun) có tiềm lực, có tham vọng và dám hành động. Chính họ đã kiên
tạo nên sức mạnh Mường, không phải trên cơ sở thống nhất bởi thủ lĩnh tối cao mà là liên
kết quyền lực sức mạnh liên Mường.
Chính trị nhà lang (cun và đạo) sở dĩ có được sức manh cơ động và khá tự trị bởi tự
thân nó đã là một tổ chức hành chính tương đối "hoàn chỉnh". Dường như giống như làng
xã người Việt có "hương đảng tiểu triều đình" với một bộ máy chức dịch đã khiến làng như
một thân thể hành chính khá hoàn hảo, có thể đảm đương tính tự trị làng xã. Ngày nay,
người ta đã không quá nhấn mạnh tính tự trị của làng như một thực thể biệt lập với nhà
nước, và quan điểm quyến rũ một thời về nước Việt Nam như một "liên làng", "siêu làng"
đã được xem xét lại thận trọng hơn. Dù sao, sự cơ động, hoàn chỉnh và tương đối độc lập
của làng Việt cũng được thừa nhận dù không quá nhấn mạnh. Làng của người Mường cũng
tương tự, nhà lang đã duy trì khá thành công bộ máy chức dịch giúp việc (bộ máy các Ậu).
Điều này, khiến các lang có cái vị thế của ông "vua con" mà Nguyễn Văn Ngọc đã nói đến
và miêu tả khá thú vị. Cần phải thấy được sự tổ chức khá hoàn chỉnh bộ máy Ậu giúp việc
nhà lang về mọi mặt, đối nội và đối ngoại, ta mới thấy hết được "động lực" để tạo ra quyền
lực, tham vọng, sức mạnh muốn "cát cứ" của các vùng Mường một thời, cũng như toàn xứ
Mường trong cơ cấu quyền lực Việt Nam.