NHỮNG ĐỈNH NÚI DU CA - Trang 199

2.2. Đông Bắc: Quyền lực Tày

Được xem là những cư dân "bản địa" của vùng Đông Bắc (Việt Bắc) nước Việt Nam

hiện đại, Tày là tộc người thiểu số có số dân đông nhất trong các tộc thiểu số Việt Nam

[156]

.

Người Tày có chung gốc với đại chủng Thái cổ rộng lớn như người Thái Tây Bắc, người
Nùng, người Choang Trung Quốc... Xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử Việt Nam, là chủ
nhân của bộ Tây Vu thường được nhắc tới trong sử liệu. Đồng thời, tộc danh cũ "Thổ" vốn
để chỉ những cư dân bản địa nhưng lại đồng nhất với người Tày cho thấy lịch sử có mặt của
người Tày trên đất Việt Nam là rất lâu đời, thuộc về "cái bản địa" hàng ngàn năm trước khi
người Việt châu thổ lập quốc. Một biến cố lớn lao của các cư dân thuộc gốc Tày diễn ra
cách đây khoảng 10 thế kỷ, khi quốc gia Đại Việt mới khai sinh, một thủ lĩnh đầy tham
vọng của họ là Nùng Trí Cao cũng nổi lên thực hiện khát vọng kiến quốc (lập nước Đại
Nam/Lịch)

[157]

. Cuộc nổi dậy của Trí Cao là nghiêm trọng, nó tác động đến cả hai quốc gia

là Tống và Đại Việt. Vì thế, khi dẹp yên được loạn Trí Cao, cả hai nhà nước Trung Quốc và
Việt Nam đều cố gắng bành trướng sức mạnh chính trị vào vùng cư dân Tày (Tây Vu). Mô
hình chính trị của Tống và Lý thời ấy là thực hiện chế độ thổ ty (phong quan chức cho tù
trưởng địa phương) và lưu quan (cử quan lại Hán, Việt vào cai trị vùng người Choang hay
Tày) nhằm dẹp bỏ dần, thay thế chế độ thủ lĩnh địa phương tộc người. Nhưng nhà Lý, mà
chính trị vương triều mang dấu ấn Phật giáo đã thoát ly được quan niệm Hoa Di sử dụng
thành công hôn nhân bang giao, liên kết chính trị kiểu thân tộc đã thu phục được lòng
người vùng biên viễn theo về. Việc gả công chúa cho châu mục, đồng thời lấy con gái châu
mục đưa về cung làm hoàng phi thể hiện tính chất "bình đẳng" đáng kể trong quan hệ nhà
Lý với vùng cao Đông Bắc. Đó là lí do quan trọng để cương vực của nước Đại Việt đã được
mở rộng đáng kể, thêm phần rất lớn núi non kể từ thời Lý do sự đồng thuận các thủ lĩnh tộc
người cát cứ theo về

[158]

. Sự tác động chính trị của triều đình miền xuôi lên vùng người

Tày là đáng kể, đến thời hậu Lê, sự ràng buộc của đồng bằng với vùng người Tày tiếp tục
thực thi mạnh mẽ hơn. Bằng chứng cụ thể là 7 họ thổ ty Lạng Sơn đều có nguồn gốc từ
miền xuôi lên và đều là công thần nhà Lê được hưởng lợi thế tập phiên thần thổ ty (Lã Văn
Lô 2008: 8)

[159]

. Cuối thế kỷ XVI, thêm biến cố lớn tác động đến vùng người Tày khi nhà

Mạc lên đóng đô ở Cao Bằng. Lại một Việt Nam khác được thiết lập, Việt Nam miền viễn
Tây mang dấu ấn nhà Mạc "nhào nặn" lần nữa vùng cư dân Tày gây ảnh hưởng đi theo mô
hình chính trị của người Việt.

Kết quả lịch sử tác động của người Việt lên vùng người Tày, như thế là khá sớm, từ

thời các vương triều Lý. Chính trị bản địa kiểu Tày (có thể kiểu chế độ quằng) đã bị phá vỡ
đáng kể về mặt hành chính. Người Tày thời trung đại đã tổ chức chính trị theo mô hình
người Việt. Một công trình là sớm, quan trọng được tiến hành bởi nhà Việt học người Mỹ
thế hệ đầu G. Hickey về hệ thống chính trị Tày (Thổ) đưa ra nhận định: "Thật không may,

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.