và lang, đạo Mường hơn là mô hình thổ ty (ở Lạng Sơn) vốn đã phai nhạt tính tôn giáo dù
cho quyền lực chính trị thế tục có thể cai trị một vùng rộng lớn hơn quằng. Tính chất thần
quyền, có thể là chìa khóa để tiến hành so sánh phân biệt hai hình thức quằng và thổ ty,
song sự so sánh là rất tương đối và có phần chông chênh bởi thiếu tư liệu. Lã Văn Lô
(1964b 2008) và Lục Văn Pảo (2003) cung cấp khá nhiều dẫn chứng về các thổ ty như
Nùng (Nông) Hồng An ở Bảo Lạc, thổ ty họ Vy ở Xuất Lễ, Cao Lộc, Lạng Sơn bị dân giết
chết. Nguyên nhân của mấy cái chết này hầu hết liên quan đến tình dục. Nùng Hồng An
hoang dâm vô độ, giữ quyền đêm đầu với con gái nông dân trước khi về nhà chồng, còn thổ
ty họ Vy hay hãm hiếp phụ nữ bị dân căm ghét mà giết. Sự kiện này chứng tỏ, trong tâm
thức người nông dân Tày dù khiếp sợ thổ ty nhưng trong não trạng của họ thổ ty vẫn là một
con người, nên có thể giết, thậm chí là quyết định tập thể như trường hợp giết thổ ty họ Vy
ở Xuất Lễ. Trong xã hội Mường và Thái, có thể lang hay tạo bị truất phế chứ không ghi
nhận sự kiện bị nhân dân giết chết. Giết chết một người thuộc đẳng cấp cai trị, có nguồn
gốc từ thần thánh là một cấm kỵ tuyệt đối với xã hội Thái, Mường. Người Tày như thế,
đẳng cấp thổ ty và quằng đã không có quyền năng tối thượng như chúa đất vùng Mường,
Thái. Có thể nói, so với xã hội Thái, Mường thì xã hội đẳng cấp Tày "truyền thống" đã có
những rạn vỡ do chịu tác động rất sớm của miền xuôi. Chính trị đẳng cấp Tày, so với chính
trị đẳng cấp Thái, Mường là tương đồng về cấu trúc nhưng thiếu tính chặt chẽ hơn trong
quan hệ người nông dân với lãnh chúa. Lãnh chúa vùng Tày có thể bị người nông xâm
phạm còn lãnh chúa Thái, Mường thì tuyệt đối không thể.
Tuy thế, vào một lúc nào đấy, trong quá khứ nơi cái "truyền thống" trước khi bị thổ ty
hóa, hoặc vì cư trú xa xôi, hẻo lánh nên ít chịu tác động từ miền xuôi, ở đấy còn bảo lưu
các yếu tố "cũ", ta có thể nào tin được cấu trúc chính trị Tày đã từng tồn tại mối quan hệ
khá tương ứng với quan hệ nông dân và chúa đất kiểu đẳng cấp chặt như mối quan hệ vùng
Thái, Mường. Nguyễn Tuấn Liêu khảo tả dân tộc học vùng Hà Giang cho biết đẳng cấp
thống trị quằng ở đây có quyền sở hữu tuyệt đối, kể cả thân phận người nông nô: "Quầng là
kẻ chiếm hữu toàn bộ ruộng đất, toàn bộ núi rừng, sông suối trong phạm vi chúng thống trị,
đồng thời cũng là kẻ chiếm hữu hoàn toàn về con người nông dân. Rõ ràng quằng là bọn
chúa phong kiến cát cứ, còn nông dân lao động ở đây là nông nô của chúng" (Nguyễn Tuấn
Liêu 1962). Sự chiếm hữu tuyệt đối của quằng, thể hiện ngay ở sự chiếm hữu con người.
Trường hợp quằng họ Nông ở Bảo Lạc có con gái lấy chồng là quằng họ Nguyễn Đồng
Văn đã cắt xã Sơn Vĩ làm hồi môn, thế là nông dân Sơn Vĩ phải theo cô con gái họ Nông về
phục vụ ông chủ mới
. Nhiều nơi khác, như xã Quản Bạ, quằng còn đặt luật bất kỳ cô
gái nhà dân nào trước khi về nhà chồng phải về ngủ với quằng ba tối
. Truy nguyên
truyền thuyết về quằng, đó là tầng lớp người đặc biệt được trời phù trợ, là con trời, là mẹ
lúa (mé khẩu), mẹ vải (mé phải), mẹ mường (mé mường), bố nước (pỏ nậm) (Đặng Nghiêm
Vạn 2001a : 425), có công đi chinh phục đất đai thành công. Quầng là những người sáng