lập bản mường, chiến đấu với ma quỉ, thuồng luồng bảo vệ bản làng yên ấm. Quầng chết đi
thành ma quằng, một sức manh linh thiêng bảo vệ làng bản. Làng bản nào thuộc sự cai trị
của chế độ quằng, vì thế, đều có đền thờ ma quằng. Dân Tày xưa, bởi thế mà có câu tục
ngữ: Nước cạn không bỏ thuyền, đất nước dù có loạn lạc cũng không bỏ quằng (nậm bốc
bấu tà lưa, mường bua bấu tả khun, tả quằng). Chế độ quằng ở một số nơi xa xôi như tư
liệu được đưa ra bởi Nguyễn Tuấn Liêu, do đó, là khá chặt chẽ trong quan hệ đẳng cấp giữa
chúa đất với nông nô. Tuy nhiên, với thể chế quằng hay thổ ty, do hạn chế về tư liệu nên rốt
cục không thể bàn luận gì nhiều hơn. Nhưng, dù sao, có mấy kết luận có thể rút ra được về
xã hội Tày khi ở đó, tồn tại bộ máy hành chính hoàn chỉnh kiểu "tiểu quốc" mà "địa giới xứ
sở" là phân vùng các châu được cai trị bởi các thổ ty hay quằng, tất cả đều có quan hệ với
dòng thổ ty quyền thế Bảo Lạc. Nền chính trị Tày là vững chắc và có đủ cơ sở tự trị cho
đến tận thời cận hiện đại. Điều ấy thể hiện ngay ở sự xác nhận của triều Nguyễn khi sử liệu
để lại đã chép về miền Đông Bắc, mà cụ thể vùng đất Hà Tuyên là "Núi sông hiểm trở, đều
thuộc đất của thổ ty" (Thực Lục 2007 T.4: 92). Anh hưởng của người Tày, và quyền lực thổ
ty, vì thế là khắp vùng núi thấp Đông Bắc rộng lớn. Như thế, bằng những cách rất riêng
kiểu chính trị Tày, họ đã góp vào kiến tạo một Việt Nam khác vùng châu thổ - đất cố cựu
của người Việt để hình thành một Việt Nam với vùng núi non rộng lớn.