Thay lời kết - mở
Xuất phát điểm quan sát từ H’mông, như thế, tôi đã buộc phải khai triển cái nhìn của
mình trên một hên tảng rộng lớn hơn chính H’mông, đó cũng là cách thức để hiểu H’mông
và về miền núi, nơi người H’mông sinh sống. Giống như ngài E. Leach (1954) đã đối xử
với các xã hội vùng cao Miến Điện để thấy được sự không tồn tại quan điểm chia cắt giữa
các tộc người dù là đỉnh núi và thung lũng. Dân tộc học trước đấy thuờng an tâm mô tả một
tộc người như là nó chỉ tồn tại một mình mà không cần thấy sự xuất hiện của các tộc người
khác. Leach đã làm ngược lại lối miêu tả các xã hội miền núi như là "tự nó", ông đã trình ra
một bức tranh sinh động và chân thực hơn về miền núi khi luôn nhận ra tồn tại mối quan hệ
giữa các tộc người, tộc ở núi cao và tộc ở thung lũng trồng lúa như người Kachin (ở đỉnh
núi) và người Shan (gốc Thái ở thung lũng). Các xã hội vì thế, luôn có sự giao lưu, can
thiệp lẫn nhau như giữa những người láng giềng. Cần phân tích tộc người ở Việt Nam trong
mối quan hệ phức hợp với nhau, ở đây là không gian xã hội miền núi phía Bắc Việt Nam,
nơi tồn tại tình trạng khá hỗn độn về mặt tộc người. Những cái nhìn mang tính giản đơn và
tĩnh tại từng tồn tại khi quan sát tộc người Việt Nam kiểu như: "Đồng bào Mán, Mèo ở trên
núi cao và đồng bào Thổ ở dưới chân núi là hai xã hội riêng biệt" (Trần Huy Liệu 1955),
giờ đây, đã lỗi thời.
Từ H’mông và nền chính trị tộc người đặc thù của họ, ít nhất, tôi buộc phải xử lí mối
tương quan của chính trị H’mông với các thế lực gây ảnh hưởng chính trị Mường - Thái -
Tày và rộng hơn nữa, với quyền lực Việt đồng bằng. Từ đó, tôi nhận thấy có 3 lớp vành đai
quyền lực tồn tại và liên hệ tác động lẫn nhau ở phía bắc Việt Nam, mà người H’mông là
lớp trên cùng. Thêm nữa, tính chất chính trị tự trị, phi chính phủ, phân mảnh và trốn thoát
khỏi sức mạnh đồng bằng của xã hội người H’mông cũng như xã hội các tộc người miền
núi Việt Nam trong quá khứ, nói chung, là khá tương ứng cho cái gọi là Zomia như quan
niệm của W. van Schendel và J. Scott (2009) chủ trương.