quyết định xử án. Trong nghiên cứu về mối quan tâm của chúng ta đối với
sự kiểm duyệt chính thức, 30 hội đồng xét xử được nghe về trường hợp một
phụ nữ bị thương do bị đơn là nam giới lái xe ẩu và đâm vào. Kết quả đầu
tiên của nghiên cứu không có gì đáng ngạc nhiên: Khi tài xế nói mình có
bảo hiểm, các thành viên ban bồi thẩm xử cho nạn nhân một khoản tiền đền
bù nhiều hơn khoảng 4.000 đô-la so với khi anh ta nói mình không có bảo
hiểm (37.000 đô-la so với 33.000 đô la). Như vậy, như các công ty bảo
hiểm đã dự tính trước, hội đồng xét xử bao giờ cũng đưa ra mức đền bù lớn
hơn nếu số tiền chi trả là do các công ty bảo hiểm chịu trách nhiệm. Tuy
vậy, kết quả thứ hai thu được từ nghiên cứu trên cũng rất thú vị. Nếu tài xế
nói mình có bảo hiểm và thẩm phán quyết định là chứng cứ không được
chấp nhận (yêu cầu ban bồi thẩm bác bỏ chứng cứ đó), thì phán quyết bác
bỏ đó lại phản tác dụng và dẫn đến một mức đền bù là khoảng 46.000 đô-
la. Vì vậy khi một số hội đồng xét xử có thông tin là người lái xe đó có bảo
hiểm, họ nâng số tiền đền bù thiệt hại thêm 4.000 đô-la. Nhưng khi các ban
bồi thẩm khác được thông báo chính thức rằng không được sử dụng thông
tin đó, thậm chí họ vẫn dùng thông tin đó và tăng số tiền đền bù thiệt hại
thêm 13.000 đô-la. Như vậy, rõ ràng là sự kiểm duyệt hợp thức và chính
thức trong phòng xét xử cũng có thể gây rắc rối cho người kiểm duyệt.
Thông thường, chúng ta phản ứng với việc bị giới hạn thông tin bằng cách
đánh giá cao thông tin bị cấm đó.
Việc phát hiện ra chúng ta đánh giá cao những thông tin bị cấm giúp ta
có thể áp dụng quy luật khan hiếm vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Với tình
hình này, có thể thấy rằng các thông tin không cần phải được kiểm duyệt
mà chỉ cần là thông tin khan hiếm để chúng ta đánh giá cao nó. Như vậy,
theo như quy luật khan hiếm, chúng ta sẽ thấy một mẩu thông tin bỗng trở
nên quan trọng hơn nếu ta nghĩ rằng sẽ không thể tìm thấy nó ở bất cứ nơi
nào. Quan niệm cho rằng những thông tin độc nhất là những thông tin quan
trọng hơn chính là tư tưởng cốt lõi của hai nhà tâm lý học Timothy Brock
và Howard Fromkin. Họ vừa mới phát triển bản phân tích khả năng thuyết
phục trong “thuyết hàng hóa”.