đá bóng. Nên giờ đây tôi hơi bỡ ngỡ khi thấy ông không có vẻ gì lo lắng về
chuyện thằng bé ốm. Ông hiểu ngay điều tôi đang cảm thấy.
- Thằng bé chỉ bị sốt cao vì nhiễm trùng đường hô hấp. Trong khi cậu rất
"ga-lăng" lo cho Wendy, tôi đã gọi điện đến bệnh viện trước khi bọn cớm
đến. Họ bảo tôi không có gì phải lo lắng. Tôi gọi đến bác sĩ tư và ông ta đã
cho đem thằng bé về một bệnh viện tư. Thế là mọi chuyện cũng ổn thôi.
- Ông có muốn tôi ở gần ông không? - tôi hỏi.
Osano lắc đầu:
- Giờ đây tôi phải đi thăm thằng bé và lo cho mấy đứa kia vì mẹ chúng phải
nằm bệnh viện. Nhưng ngày mai mụ ta sẽ xuất viện thôi.
Trước khi rời ông tôi hỏi Osano:
- Khi ném bà ấy qua cửa sổ, ông có nhớ là thực sự cao hơn lề đường có hai
tầng?
Ông lại cười với tôi:
- Hẳn rồi. Vả chăng tôi không hề hình dung mụ ta bay xa đến thế. Đúng là
con mụ phù thủy.
Ngày hôm sau mọi tờ báo ở New York đều đăng bài tường thuật ngay trang
đầu. Osano vẫn còn nổi danh đủ đề thiên hạ làm chuyện đó. Ít ra là Osano
đã không đi tù bởi vì Wendy không khiếu kiện nữa. Bà ta nói rằng có lẽ là
bà đã vấp chân và ngã qua cửa sổ. Nhưng đó là ngày hôm sau và việc bồi
thường đã được dàn xếp. Osano được tạp chí khéo léo khuyên nên thôi việc
và tôi cũng xin nghỉ làm cùng với ông. Một cây viết bình luận, cố tỏ ra khôi
hài đã dùng lối đại ngôn và ngoa ngôn giả dụ rằng nếu Osano thắng giải
Nobel, ông ta sẽ là người đầu tiên trong số các vị được giải Nobel đã quăng
vợ qua cửa sổ.
Nhưng bên dưới vẻ khôi hài bông lơn ấy, mọi người hiểu rằng tiểu phẩm
hài hước kia sẽ chấm dứt mọi hy vọng của Osano theo hướng đó. Người ta
không thể trao một giải thường danh giá khả kính như giải Nobel cho một
nhân cách bê bối như Osano. Và Osano càng bôi bác thêm khi chỉ ít lâu
sau, ông ta lại viết một bài phúng dụ về mười phương pháp tốt nhất để hạ
sát các mụ ác phụ!
Nhưng trước mắt cả hai chúng tôi đều có vấn đề.