khác nhau, mà chi phí vận chuyển và lưu kho là phần bù đắp cho lợi thế của
việc giao vận kết hợp. Nhà bán lẻ có thể lên kế hoạch trước để nhận hàng
tại từng điểm và chuyển về, do đó tối ưu được chi phí và công năng của
phương tiện vận chuyển khi tới nhận hàng tại các nhà cung cấp khác nhau.
Thứ hai, việc kết hợp vận chuyển phân phối cấp một và cấp hai trên cùng
tuyến đường (tức là chuyển hàng), giúp giảm chi phí. Hoạt động phân phối
cấp một chỉ việc tới nhận hàng từ nhà cung cấp, trong khi hoạt động phân
phối cấp hai chỉ việc phân phối hàng tới nhiều đầu ra của nhà bán lẻ.
Doanh nghiệp sẽ tránh được những di chuyển không kinh tế của phương
tiện vận tải bằng việc tới nhận hàng từ các nguồn khác nhau trong cùng một
chuyến đi, và đảm bảo rằng tất cả các phương tiện vận tải đều được chất
đầy khi lên đường.
Giá sản phẩm = Giá tại cổng nhà máy + Giá vận chuyển
Hình 29.1 Giá giao tại cổng nhà máy
SỬ DỤNG KHI NÀO
FGP đặc biệt phù hợp khi số lượng các nhà cung cấp trong chuỗi cung ứng
lớn hơn nhiều số lượng các nhà bán lẻ. Điều quan trọng cần chú ý ở đây là
tỷ lệ giữa số điểm lên hàng (vị trí của nhà cung cấp) và số điểm xuống hàng
(vị trí của nhà bán lẻ). Lợi thế quan trọng ở đây là hiệp lực giữa sự đơn giản
trong cung cấp với tốc độ giao nhận. Các nhà cung cấp có vị trí càng gần
nhau thì hiệu quả của quy trình càng cao và lợi thế cho nhà bán lẻ càng lớn.
Vấn đề quan trọng cần xem xét trong quy trình FGP là giá trị thực chất của
việc vận chuyển tùy thuộc vào cả số lượng hàng mỗi lô và giá trị trên mỗi
lô hàng. Số lượng lớn làm xe chất đầy, vì vậy chi phí vận chuyển được xác
lập khá tốt dù bất kể bên nào chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, việc giao nhận
số lượng nhỏ với tần suất lớn có thể dễ dàng dẫn tới việc chất đầy xe và từ
đó có thể tối ưu các chuyến đi và việc bốc dỡ, đặc biệt là khi lô hàng có giá