thâm hụt ở mức 600 triệu đô-la, tương đương 2,5% GDP – một
khoảng cách không lớn lắm so với con số thực tế.
Ủ
y ban May vốn được thành lập nhằm xem xét các chính sách
kinh tế của chính phủ. Dường như họ đã thổi phồng quy mô và sức
ả
nh hưởng của sự thâm hụt ngân sách này lên quá nhiều. Như lời của
sử gia A. J. P. Taylor thì điều này thể hiện sự pha trộn giữa “định
kiến, sự ngu dốt và nỗi sợ hãi”. Trong bối cảnh của cuộc bán tháo
đồng bảng Anh lúc bấy giờ, những quan điểm như thế này chỉ tạo
ra thêm sự hoảng loạn. Ủy ban May đề xuất rằng chính phủ nên
cố gắng khắc phục sự thâm hụt ngân sách bằng cách cắt giảm
chi tiêu xuống còn 500 triệu đô-la – trong đó bao gồm cắt giảm
20% trợ cấp thất nghiệp – và tăng thu thuế thêm khoảng 100 triệu
đô-la. Theo như những hiểu biết cơ bản của chúng ta hiện nay về
hoạt động của nền kinh tế, ủy ban này thật ngớ ngẩn khi cho rằng
với khoảng 2,5 triệu người thất nghiệp, sản xuất công nghiệp sụt
giảm 20% và giá cả tăng đều 7% một năm, giải pháp cho các vấn
đề kinh tế của Anh lại là cắt giảm trợ cấp và tăng thuế. Nhưng
tại thời điểm đó, quan điểm chính thống cho rằng thâm hụt ngân
sách luôn luôn là điều tồi tệ ngay cả trong thời kỳ suy thoái.
Maynard Keynes gọi báo cáo này của May là “tài liệu ngu xuẩn nhất
mà bất hạnh thay, tôi phải đọc.”
Những đề xuất của ủy ban này gây ra sự chia rẽ sâu sắc trong
nội các. Một bên là một nhóm lớn, đứng đầu là thủ tướng Ramsay
MacDonald và Bộ trưởng tài chính Philip Snowden, những người luôn
tin rằng ngân sách cần phải được cân bằng cho dù đất nước đang
trong thời kỳ suy thoái. Còn bên kia là các đảng viên đảng Xã hội,
những người luôn chống đối cương quyết và mạnh mẽ quan điểm
này.
Trong khi đó, khoản vay 250 triệu đô-la từ Ngân hàng Dự trữ Liên
bang New York và Ngân hàng Trung ương Pháp đã cạn kiệt – Ngân