Đi lính cho Tây
Những năm đầu khi mới chiếm Gò Công, việc mộ lính bổ xung cho quân
đội Pháp cũng gặp nhiễu sự chống đối tiêu cực của dân chúng. Thường,
Pháp cho chặn các ngã đường, bắt thanh niên khỏe mạnh xung vào lính gọi
là “nạn lính tản”. Khi cần bổ xung, Pháp ruồng bắt lung tung, làm dân
chúng sợ hãi, nhứt là thanh niên trai tráng, mạnh ai nấy tìm đường chạy
trốn. Hồi đó, đi lính cho Tây chỉ gồm những phần tử nghèo và bất hạnh
trong xã hội cũ. Vào lính, sau một thời gian, sống trong không khí tự do,
cởi mở, tánh tình và phong cách họ cũng thay đổi. Thái độ rụt rè, nhút nhát
ban đầu đã nhường chỗ sự dạn dĩ, dám ăn dám nói. Nhiều đứa mới ngày
nào là trẻ chăn trâu, giữ vịt, bây giờ lên mặt với đời, là những người trước
kia coi rẻ, khinh thường chúng.
Một số may mắn, lập công trên đường binh nghiệp, lên chức ông Cai
(Caporal), ông Đội (Sergent), ông Ách (Adjudant) tương đương chức chuẩn
uý mà hồi đó chỉ gọi bằng “ông Quản”.
Những người ít học khi có chức, có quyền hay tự phụ, kiêu căng. Quân
lính khi được trọng vọng thì sinh nạn “kiêu binh”. Lúc mới về làng, nhiều
người nói chuyện chêm tiếng Tây, tỏ ra mình quan trọng. Bà con lối xóm
tới thăm thán phục. Trước kia họ là “thằng Hai, thằng Ba”, bây giờ thành
“Ông Cai, ông Đội”, tuy chưa oanh liệt nhưng cũng nở mặt mày. Nửa thế kỷ
trước, ông bà chúng ta thường nhắc câu “Lính về làng như thần hoàng về
miếu”, khiến cho mấy ông viên chức hội tề cũng phải kính nể. Không biết
sự thật ra sao, nhưng theo một vài vị cố cựu ở Gò Công nói rằng “đình làng
Tân Niên Tây, hồi trước cất trên một gò đất phát quan võ”, vì nó nằm ở đầu
giồng Tháp cao ráo, nên dân ở đó đi lính đều lên quan cả. Vì lẽ đó, các ông
trong ban hương chức hội tề bàn nhau dời đình làng về vị trí mới, tại xóm
“Câu Đình” để phá cuộc đất “phát quan võ”, làm hại đất nước?
Bây giờ nói về việc “học chữ Tây buổi đầu”, cũng có nhiều điều khôi hài.
Pháp cần người thừa hành làm việc trong các công sở nên ra lịnh bắt buộc
phụ huynh phải đưa con em đi học. Hồi trước, trẻ em từ 12 tuổi trở lên đều