ních. Nó trông không hợp với chiếc quần Polyester và đôi giày cao gót. Bà
nhất quyết không chịu đi dép kẹp như mọi người trong trại. Pam mặc
nguyên cả bộ đồ lính do đội Vệ binh Quốc gia đưa. Còn những nhân viên
và nhạc công trong đoàn mặc áo quần lao động như phạm nhân. Everett tin
tấm ảnh chụp họ sẽ được tờ Scoop đăng, có thể là lên trang bìa. Tấm ảnh
này rất tương phản với những tấm mà ông đã chụp Melanie khi nàng trình
diễn trong buổi lễ. Khi ấy nàng mặc áo dạ hội bằng lưới và xêquin lóng
lánh, mang giày đẹp. Melanie nói chân nàng như chân nông dân, móng chân
nàng bây giờ đã lấm đầy đất bụi trong trại khi nàng chạy quanh trong đôi
dép kẹp bằng cao su. Everett còn mang đôi giày cao cổ chăn bò da đen như
da thằn lằn.
Hành khách trên chuyến bay được phục vụ rượu sâm banh, cocktail và bánh
qui xoắn. Chưa đầy một giờ sau, máy bay hạ cánh ở phi trường L.A giữa
tiếng reo hò và nước mắt. Họ đã sống chín ngày trong sự kinh hoàng. Có
người gặp nguy hiểm có người không, nhưng hầu hết đều trải qua những
giây phút khủng khiếp. Melanie nhận ra trong số họ có nhiều người đã được
Maggie khâu vết thương. Chỉ trong vài ngày mà nàng có cảm giác rằng họ
đã khâu vết thương cho hết một nửa trại. Nghĩ đến chuyện đó, nàng nhớ
Maggie. Nàng định khi điện thoại hoạt động trở lại, nàng sẽ gọi cho bà.
Chiếc máy bay chạy đến chỗ cuối cùng của đường băng, và khi họ bước ra,
cả một hàng rào phóng viên nhà báo đang đợi. Họ là những người sống sót
đầu tiên của trận động đất ở San Francisco trở về L.A. Ở đây còn có máy
quay phim của đài truyền hình, và khi Melanie vừa ra cổng, họ nhào đến
nàng. Trông nàng hơi choáng váng. Mẹ nàng đã bảo nàng chải tóc, đề
phòng khi có phóng viên chụp ảnh, nhưng nàng không quan tâm. Nàng
sung sướng được về nhà, nhưng nàng không nghĩ nhiều về chuyện này khi
còn ở trong trại. Ở đấy nàng quá bận công việc.
Các nhiếp ảnh viên còn nhận ra Jake, họ chụp ảnh anh ta, nhưng anh ta đi
qua Melanie mà không nói một tiếng. Jake nói với những người đứng gần