Tại thành phố, Phật tìm được những môn đồ cũ. Họ mau mắn trở lại làm
đệ tử trung thành của Phật, vì Phật đã nói chuyện với họ, với tất cả phẩm
cách cao cả và lòng tự tin. Sự bình tĩnh điềm đạm, sáng suốt của Phật Thích
Ca đã trấn an họ, dẹp tan tất cả mọi nghi ngờ ngần ngại. Cả nhóm họp lại tự
xây cất chỗ ở trong công viên Deer, tạo thành một làng của những người
hiền triết ở Benares, và tại đó Phật Thích Ca đã giảng cho tất cả mọi người
nghe chân lý mà Phật khám phá được.
Phật Thích Ca nói “có bốn điều chân lý cao xa mà ta phải thấu đáo. Thứ
nhất là chân lý của sự khổ. Sự khổ ở thế gian và kéo dài suốt cuộc đời.
Sinh, lão, bịnh, tử đều là khổ. Không được thương yêu cũng là sự khổ. Bị
chia sớt tình yêu cũng là sự khổ. Không đạt được ý muốn cũng là sự khổ.
Nói tóm lại, những điều căn bản của cá tính con người là sự khổ”.
Chân lý đó đã được khẳng định trong giáo lý nhà Phật. Phật dạy rằng,
nằm sâu trong sự ham muốn của con người là được trường sinh bất tử kèm
theo bằng dục vọng và sự khao khát lúc nào cũng đòi hỏi để thoả mãn,
thèm khát sống, thèm khát quyền lợi. Đây là chân lý thứ hai được khám phá
ra là những nguyên nhân của sự khổ.
Chân lý thứ ba là dạy cách tiêu diệt nỗi đau khổ, dập tắt ngọn lửa tham,
sân, si, và xua đuổi không cho nó có nơi sinh tồn.
Chân lý thứ tư là bát chánh đạo, giải thích phương thức giải thoát con
người bằng cái nhìn xác đáng, trong ý nghĩ, ngôn ngữ, hành động, trong đời
sống, trong sự nỗ lực làm việc, cẩn thận và chú tâm. Những điều đó bao
trùm ba con đường sinh hoạt chính yếu của con người là, thân xác, trí não
và ngôn ngữ.
Ông tự xưng là Phật Thích Ca, vì đã nghiền ngẫm và thông suốt được
bốn điều chân lý cao quý ấy, đã đạt tới bực thánh, một bực chân tu toàn mỹ
nhất của nhân loại.
Bây giờ, Phật đã lĩnh hội được cách giải thoát, được mệnh danh là con
đường trung dung giữa cực đoan, sự hưởng thụ vật chất quá đáng, cũng như
sự hành xác thái quá. Do đó, Phật Thích Ca đã đạt tới con đường đưa đến