nữa và ôm lấy mặt trong đôi bàn tay khum lại và để cho mấy ngón tay vuốt
dọc theo khuôn mặt. Trời đã tối sẫm, mụ chỉ nhìn thấy hình dáng lờ mờ của
nàng, nhưng như thế đã là đủ lắm rồi.
Grandmother cuộn mình lại bên bờ sông. Mụ bắt đầu câu hát, lúc đầu thì
chỉ là những tiếng rời rạc; nhưng khi mụ hát lên từng lời thì khúc hát trở
nên mạnh mẽ hơn:
Con mên yêu ơi, hãy quay về với mẹ.
Bước chân vào dòng nước nhẹ mượt êm.
Hãy cởi bỏ lốt hình người xa lạ.
Để mặc vào - lớp da rắn lung linh.
Hãy đến đây.
Bước gần lại, con gái xinh của mẹ.
Hát hết bài, mụ hít vào một hơi sâu. Đó không phải là một bài hát bình
thường. Các linh vật cổ xưa sống trong những biển hồ và có khả năng
chuyển đổi hình dạng như các nữ nhân ngư, những ondine, các lamia đều
biết về khúc hát này: đó là một sợi dây vô hình, một cái thòng lọng để lôi
kéo con gái về với mụ, một bùa chú ma thuật cổ xưa.
Đám cây biết rõ bài hát đó là gì, một lời kêu gọi mang tính bùa mê, thế
nhưng với bất cứ ai hãy còn thức trong ngôi làng bên sông đều nghĩ là họ
đang nghe thấy tiếng làn gió nhẹ lướt qua những cành cây, làm cho những
chiếc lá thông nhọn chạm vào nhau kêu lách cách. Họ có thể nghĩ rằng đó là
con hươu đuôi trắng đang gặm cỏ ở đồng cỏ gần bên. Nếu họ ngước lên để
lắng tai nghe thì họ sẽ nghĩ là một đám chim bắt ruồi đuôi kéo đang lướt
qua bầu trời từ những vị tổ tiên có pháp thuật, những vị thần biển trong
truyền thuyết, nên khi đứng bên bờ sông, con tim nàng đập như trống dồn,
theo một nhịp điệu hoang dại và tàn bạo. Trong tai nàng, nàng có thể nghe
thấy tiếng gọi của những anh chị em họ thuộc loài rắn, những con rắn
chuông massasangas, rắn đuôi chuông, những con rắn nước garter nhỏ xíu.
Con gái ơi, chúng cảnh báo, sẽ phải trả giá đấy !
Nàng ngừng lại. Có phải đó là một lời cảnh cáo ? Có lẽ nàng nên quay
lại, nên trở về nhà. Khu rừng như cũng đang cất giọng ngân nga.
Chú ý, cẩn thận, hãy coi chừng đấy.