thể tham dự. Lệnh ngừng oanh tạc và pháo kích có hiệu lực kể từ 8 giờ
sáng, tức 13 giờ, giờ quốc tế, hoặc 21 giờ địa phương ngày 1-11-1968.
Thiệu hốc hác qua một đêm thức trắng, vừa ngồi nghe vừa thở phì phì. Bản
tin chấm dứt, Thiệu vùng đứng dậy, mặt đỏ tía tai, nói lạc cả giọng:
- Nó đơn phương ngừng oanh tạc Bắc Việt, nó mời Việt Cộng tham dự hội
đàm Ba Lê mà không thèm hỏi ý kiến hay thông báo cho mình biết trước!
Không franc jeu[4] chút nào! Xấu chơi quá! Chịu không nổi! Mình là tổng
thống, là phó tổng thống một nước đồng minh mà cũng ngồi nghe ra-đi-ô
chờ tin như dân chúng. “Cuộc hội đàm nghiêm chỉnh... Mặt trận Giải phóng
sẽ tham dự... Chính phủ Việt Nam cộng hòa có thể th-a-am d-ư-ự! (Thiệu
nhấn mạnh và kéo dài giọng) Nó còn coi mình, coi đồng minh chiến đấu ra
cái quái gì...
Thiệu lồng lộn đi vòng quanh trong phòng, như con trâu bắt cột vào cọc,
muốn thoát ra mà không thoát được.
Thiệu dừng lại, nắm lấy thành ghế xa-lông, xô tới xô lui vừa thở phì phì.
- Nó coi mình như con bẹc-giê! - Thiệu trỏ ngón tay vào góc phòng làm bộ
suỵt chó - Ê, ê..., ngồi kia! Ê, ê..., lại đây!
Tiếng Thiệu rít lại. Người Thiệu mỏi mệt xỉu đi. Thiệu vội dựa vào thành
ghế, nền nhà trơn, cái ghế trôi tuột đụng vào chiếc bàn. Ba ly cà phê vợ
Thiệu vừa đưa ra rớt xuống sàn nhà bể nát. Nước cà phê đen đặc lênh láng
trên mặt thảm.
Vợ Thiệu hốt hoảng từ phòng trong chạy ra. Thiệu vừa đứng thở vừa hậm
hực:
- Nguyễn Hữu Thọ bận quần xà lỏn, trốn chui trốn lủi trong rừng thì được
nó kiêng nể, trọng vọng, đặt ngồi ngang hàng. Mình là quốc gia đồng minh,
trên 50 nước công nhận, ngồi giữa thủ đô, thì nó bảo là “có thể tham dự...”.
Vợ Thiệu đã thu lượm nhưng mảnh ly bể, đưa ra ba ly cà phê mới chế, khéo
léo nhắc chừng:
- Ông mời khách dùng cà phê đi, hai ổng thắc trắng đêm qua rồi. Cha đã
hẹn tới, vì ngày hôm nay là Lễ Chư Thánh.
Thiệu đã nguôi cơn giận, nét mặt có phần dịu lại. Ba người ngồi vào bàn.
Vừa nhấm nháp ly cà phê, Hai Long vừa nói: