Ngay lập tức, những cái đầu quay ngoắt lại nhìn bà, vòi giơ ra, những
đôi mắt lấp lánh hướng về phía trước. Tai của bọn chúng đều đã dựng cả lên.
Bà bước ra khỏi chỗ trốn giữa đám rễ rồi đối mặt trực tiếp với chúng.
Bà giơ tay ra, nhận thấy rằng một cử chỉ như vậy có thể sẽ là vô nghĩa với
những sinh vật không có tay. Tuy nhiên, đó là tất cả những gì bà có thể làm.
Sau khi nhặt balô lên, bà đi qua bãi cỏ rồi bước lên con đường.
Khi ở gần - cách chưa đầy năm bước - bà có thể thấy rõ hơn nhiều về
vẻ ngoài của những con vật, nhưng sự chú ý của bà lại dồn vào một thứ gì
đó sống động và hiểu biết trong ánh nhìn của chúng, một loại trí thông minh.
Những sinh vật này khác biệt với đám thú gặm cỏ gần đó giống như con
người khác biệt với con bò vậy.
Mary chỉ vào bản thân rồi nói: “Mary.”
Con gần nhất vươn vòi tới trước. Bà tiến gần lại, để nó chạm vào ngực
mình, nơi bà đã chỉ vào, rồi bà nghe thấy giọng mình vọng ngược lại từ cổ
họng của con vật: “Merry.”
“Các bạn là gì vậy?” Bà hỏi, và con vật trả lời: “Capalazivay?”
Điều duy nhất bà có thể làm là đáp lại. “Tôi là con người,” bà nói.
“Tula konngoi,” con vật nói, rồi một điều còn kì quặc hơn xảy ra:
Chúng đồng loạt cười ầm lên.
Mắt chúng nheo lại, vòi vung vẩy, đầu hất lên - từ họng chúng phát ra
âm thanh không thể nhầm lẫn của sự vui vẻ. Bà không ngăn được mình mà
cũng phá lên cười theo.
Rồi một con khác bước tới và dùng vòi chạm vào bàn tay bà. Mary đưa
luôn bàn tay còn lại ra cho cái chạm dò dẫm, mềm mại, phủ lông cứng của
con vật.
“À,” bà nói, “bạn ngửi thấy mùi dầu từ cái vỏ hạt…”
“Bohat,” con vật kêu lên.
“Nếu các bạn có thể phát ra những âm thanh trong tiếng nói của tôi,
một ngày nào đó chúng ta có thể giao tiếp. Dù có chúa mới biết là bằng cách
nào. Mary,” bà nói, lại chỉ vào bản thân.