hiệu quả, và thành công quân sự". Tuy thế, JCS cũng đành miễn cưỡng
đồng ý tiếp nhận Donovan và OSS với hy vọng kiểm soát được cả ông và
tổ chức này.
Bất chấp những lo ngại của JCS, OSS nhanh chóng phát triển các chi nhánh
chủ yếu của nó và thuê nhân viên. Một trong năm chi nhánh quan trọng là
Chi nhánh nghiên cứu và phân tích (R&A) khá giống với COI; nó tuyển
dụng một số người xuất chúng nhất nước Mỹ; chẳng hạn Ralph Bunche(11)
được thuê để "xử lý những vấn đề về chính sách và chính quyền thuộc địa,
vấn đề của người bản xứ và các quan hệ chủng tộc trong Đế quốc Anh".
Các chuyên gia R&A lựa chọn và phân tích dữ liệu rồi chuẩn bị các báo
cáo tình báo cho cơ quan và tổng thống. Các chi nhánh khác, bao gồm Chi
nhánh Tình báo (SI) tham gia thu thập bí mật tin tức tình báo; Chi nhánh
Phản gián (X-2) chủ yếu đối phó với những hoạt động gián điệp, Chi nhánh
Công tác Đặc biệt (SO) hoạt động sau phòng tuyến địch, huấn luyện và
giúp các nhóm kháng chiến trên khắp châu Âu và châu Á, cung cấp tin tức
về mục tiêu, giúp các phi công bị bắn rơi; và Chi nhánh Công tác Tinh thần
(MO) có nhiệm vụ tạo ra và phân phát sản phẩm tuyên truyền "đen", tức là
loại hình tuyên truyền được làm giả một cách tinh vi. Đến khi OSS bị bãi
bỏ ngày 1 tháng 10 năm 1945, cơ quan này đã phát triển được "hơn 40 chi
nhánh và đơn vị với một đội ngũ nhân viên được tuyển chọn kỹ lưỡng lên
đến gần 13.000 người".
Suốt chiến tranh thế giới 2, những nam nữ thành viên OSS có nhiều
phương thức hoạt động - từ chiến đấu cùng Kháng chiến Pháp phía sau
phòng tuyến dịch đến chuẩn bị những báo cáo thống kê về dân số Burma -
ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Các sĩ quan được OSS lựa chọn và
những ai không được Donovan hay nhân viên của ông tuyển mộ thì phải
xin được phục vụ. "Hầu hết những bổ nhiệm vào chức vụ cao nhất trong