“Ồng thấy đấy, đó là lý do khiến họ không bao giờ để tôi xuất ngoại; họ vẫn
chưa hiểu con người của tôi”.
CHÚ THÍCH
(1) Ví dụ về các bài báo này gồm có Stanley Karnow, “Vietnamese
Journalist's Divided Allegiance: After Nine Long Years a Double Agent
Explains the Mystery of His Actions”, báo San Francisco Chronicle,
30.5.1990; Morley Safer, “Spying for Hanoi”, New York Times Magazine,
11.3.1990; Robert D. McFaddden, “The Reporter Was a Spy from Hanoi:
Life and Legacy of a Paradox”, báo New York Times, 28.4.1997; Douglas
Pike, “Mỹ Friend An”, trong sách The Vietnam Experience, War in the
Shadows (Newton, MA: Boston Publishing, 1988); Laurence Zuckerman,
“The Secret Life of Phạm Xuân Ẩn”, tạp chí Columbia Journalism Review,
tháng 5 và 6.1982, trang 7-8.
(2) H. D. S. Greenway, “Shadow of a Distant War”, báo Boston Globe,
30.4.2000. Xem thèm H. D. s. Greenway, “A Glimpse of the Boxes Within
Boxes of Vietnam”, Báo Boston Globe, 5.1.1990.
(3)
http://vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2003/06/3B9C8E01/Thieu
tuong tinh Phạm Xuân Ẩn lam trong benh.
(4) Nguyễn Thị Ngọc Hải, Phạm Xuân Ẩn: Tên người như cuộc đời
(Hà Nội: NXB Công An Nhân Dân, 2002).
(5) Hoàng Hải Vân và Tấn Tú, Phạm Xuân Ẩn: A General of the
Secret Service (Hà Nội: NXB Thế Giới, 2003). Ấn phấm bằng tiếng Anh,
được dịch từ loạt bài Phạm Xuân Ẩn: Tướng tình báo chiến lược đăng trên
Báo Thanh Niên từ ngày 7-10 đến 28-11-2002. Ở phần ghi nguồn, chúng tôi
(ND) ghi chú theo tên tiếng Anh.
(6) Sau này Ẩn đã kể với tôi: “Tôi có nhiều người bạn mà nếu họ ở lại
thì sẽ gặp rắc rối thực sự. Tôi không thể ngăn họ ra đi bởi điều đó chẳng có
ý nghĩa gì, nên tôi hướng dẫn cho họ đi theo hải trình an toàn nhất để ra
ngoài biển khơi và được các tàu lớn đón. Nhiều người không bao giờ thực