PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VIỆT NAM TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG 1963
75
và xin Ngài hoan hỷ chuyển lời phân ưu của chúng tôi đến các gia đình
Phật giáo Trung phần”
13
.
Năm 1961, Giáo hội Tăng già Nguyên thủy tạo lập Bảo tháp
Thích Ca Phật Đài tại núi Lớn – Vũng Tàu với mục đích bảo vệ Phật
pháp khi chính phủ Ngô Đình Diệm ngày càng gây khó khăn cho
Phật giáo phát triển, đến ngày 09, 10 tháng 03 năm 1963, Giáo hội
Tăng già Nguyên thủy làm lễ khánh thành.
14
Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam quyết định thành lập
Ủy ban Liên phái Tổ chức Lễ Khánh thành Thích Ca Phật Đài gồm 17
vị đại diện các đoàn thể Phật giáo Việt Nam, Cao Miên, Trung Hoa.
“1. Trưởng ủy ban: Đạo hữu Mai Thọ Truyền, Phó Chủ tịch Hội
Phật giáo Thế giới, Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt; 2. Phó Trưởng
ủy ban: Đạo hữu Sơn Thái Nguyên (Phật giáo Theravāda Việt gốc
Miên) ;3. Tổng Thư ký: Đạo hữu Nguyễn Văn Hiểu (Hội Phật giáo
Nguyên thủy Việt Nam); 4. Phó Thư ký: Đạo hữu Đặng Văn Ngộ
(Hội Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam); 5. Thủ quỹ: Đạo hữu Hồ Đắc
Thăng (Hội Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam);,…Đặt dưới sự chứng
minh của Ủy ban Chứng minh gồm 14 vị chư Tăng lãnh đạo các giáo
phái Phật giáo Việt Nam và Tích Lan:1 Đại đức Narada Maha Thera;
2. Đại đức Bửu Chơn, Tăng thống Giáo hội Tăng già Theravāda Việt Nam
(tức Phật giáo Theravād Việt Nam);…17. Sư cô Diệu Huấn, Hội Trưởng
hội Phụ nữ Phật tử”.
15
Ngày 25-5-1963, tại chùa Xá Lợi, đại diện các đoàn thể tham
dự lễ công bố bản Tuyên Ngôn thệ nguyện tranh đấu và ủng hộ 5
nguyện vọng của Phật giáo.
16
Bản Tuyên Ngôn thệ nguyện đó có chữ ký của Tỳ khưu Pháp Tri,
13. TTLTQG II, Phủ Tống Thống Đệ I Cộng Hòa, Hồ sơ số 8527.
14. Tiểu sử Ông Nguyễn Văn Hiểu, (1971), bản đánh máy lưu hành nội bộ và trong thư viện chùa
Bửu Quang, Thủ Đức, TP.HCM, tr. 8; Hội Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam (1963), Kỷ niệm Lễ khánh
thành Thích Ca Phật Đài, Sài Gòn, tr. 7.
15. Hội Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam (1963), Kỷ niệm Lễ khánh thành Thích Ca Phật Đài, Sài
Gòn.
16. Thích Hải Ấn, Lê Cung (2013), “Cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam năm 1963”, NXB Thuận
Hóa, tr. 113.