ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI KHMER
89
đức (Morality) là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã
hội bao gồm những chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi của con người
trong quan hệ với người khác và với cộng đồng (gia đình, làng xóm, giai
cấp, dân tộc hoặc toàn xã hội). Căn cứ vào những chuẩn mực ấy, người
ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện và ác,
về cái không được làm (vô đạo đức) và về nghĩa vụ phải làm. Khác với
pháp luật, các chuẩn mực đạo đức không ghi thành văn bản pháp quy
có tính cưỡng chế, song đều được mọi người thực hiện do sự thôi thúc của
lương tâm cá nhân và của dư luận xã hội”.
Đạo đức (Morality) khác với đạo đức học (Ethica). Đạo đức học
theo Từ điển Bách khoa Việt Nam
2
là: “Khoa học triết học nghiên cứu
đạo đức - giải thích bản tính và vai trò của đạo đức trong xã hội, nguồn
gốc và quy luật phát triển của đạo đức trong xã hội, nguồn gốc và quy
luật phát triển của đạo đức trong lịch sử cũng như cơ sở lý luận của
những loại hình đạo đức cụ thể”.
Danh từ “đạo đức” bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris)
- lề thói, (moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Ở
phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong
những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại.
Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, về sau khái niệm đạo được
vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo còn
có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội. Khái niệm
đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ đó trở
đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để
nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo,
là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của
người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên
tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: “Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn
2. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2000), Từ điển Bách khoa Việt
Nam 1 (A-Đ), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 738.