SỰ DU NHẬP PHẬT GIÁO THERAVADA TỪ CAMPUCHIA
131
thống phân hệ Nguyên thủy Phật giáo’”.
1
Từ sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập vào năm
1981, Việt Nam tồn tại cùng lúc ba hệ phái, bao gồm: Bắc tông,
Nam tông và Khất sĩ. Phật giáo Nguyên thủy được xếp vào hệ phái
Nam tông. Trong hệ phái Nam tông ở Việt Nam lại được chia thành
hai nhóm: của người Việt, gọi là Phật giáo Nam tông Kinh và của
người Khmer, gọi là Phật giáo Nam tông Khmer.
1. QUÁ TRÌNH DU NHẬP CỦA PHẬT GIÁO THERVADA TỪ
CAMPUCHIA VÀO VIỆT NAM
Hòa ước Giáp Thân (1884), ký kết giữa nhà Nguyễn và Pháp,
mở đầu thời Pháp thuộc hoàn toàn của Việt Nam, đặc biệt vào
những năm đầu của thế kỷ XIX, các hoạt động chống xâm lược, chỉ
có những nhà yêu nước hoạt động riêng lẻ, chưa thể tập hợp thành
một chính đảng. Nhu cầu cần có một chính đảng để tập hợp lực
lượng cách mạng chống ngoại xâm là nhu cầu cấp bách. Đặc biệt với
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 đã tạo tiền đề
cho nhiều hoạt động tôn giáo mạnh mẽ đã xuất hiện, cả ở Nam kỳ
và ở Campuchia. Riêng ở miền Nam Việt Nam, là Nam kỳ bấy giờ,
trong giới Phật giáo đã xuất hiện phong trào chấn hưng. Các hội
Phật giáo ở Nam kỳ lần lượt ra đời, như Nam kỳ Nghiên cứu Phật
học hội (1931), Lưỡng Xuyên Phật học hội (1934), Tịnh độ Cư
sĩ Phật hội Việt Nam (1935), sau đó đến miền Trung và miền
Bắc. Chịu ảnh hưởng của phong trào chấn hưng Phật giáo đang
dấy lên tại nhiều nước ở châu Á, vào những năm 1930, một số tín
đồ Phật giáo người Việt Nam tại Campuchia đã khởi xướng việc
thành lập nhóm tín đồ Phật giáo nòng cốt đầu tiên gồm những
người Việt Nam theo Phật giáo Nguyên thủy - Theravada”. Hội
này chính thức được thành lập vào năm 1935 lấy tên là “An Nam
Phật Giáo Hội”.
Trong số những người tiên phong truyền bá đạo Phật Nguyên
1. Trần Hồng Liên (2019), Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam: Truyền thống và biến đổi, https://
dacsanhoadam.com/phat-giao-nguyen-thuyviet- nam-truyen-thong-va-bien-doi/., ttruy cập ngày
13/10/2020.