PHẬT GIÁO NAM TÔNG TẠI VÙNG NAM BỘ
146
mối thân hữu thâm giao ở nhiều khía cạnh nhưng đặc biệt hơn hết
là mối quan hệ Phật giáo Theravāda.
Năm 1620 công chúa Nguyễn Thị Ngọc Vạn là cháu của chúa
Nguyễn Phúc Nguyên trở thành hoàng hậu của vua Chey Chetta II
của nước Campuchia.
Từ đó, người Việt có nhiều thuận lợi di cư đến sinh sống ở các
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Người dân Khmer là người bản
xứ vùng đất này cũng đang chịu nhiều khốn đốn, bất an do các nhà
lãnh đạo Campuchia bất đoàn kết, nội bộ hỗn loạn, chia phe rẽ phái.
Chính trong hoàn cảnh đó, người Khmer bản xứ và người Việt di cư
là những người cùng khổ gặp nhau trên vùng đất đồng bằng sông
Cửa Long như một cơ duyên tiền định. Họ đùm bọc giúp đỡ nhau
cải tạo vùng đất vốn còn nhiều rừng rú u tịch, để tìm kế sinh nhai.
Tới năm 1757, triều đình nhà Nguyễn thiết lập toàn bộ hệ thống
chính quyền trên toàn khu vực Nam bộ. Tháng 12 năm 1845, ba
nước An Nam (Việt Nam), Xiêm (Thái Lan) và Miên (Campuchia)
đã ký một Hiệp ước, trong đó thừa nhận 6 tỉnh Nam kỳ thuộc Việt
Nam.
1
Nhưng lịch sử không dừng lại đó, giữa lúc tình hình chính trị các
khu vực biên giới còn đang rắc rối thì thực dân Pháp tấn công vào
ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) vào giữa thế kỷ
XVIII và Nam bộ được gọi bằng một cái tên khác là Cochinchine.
Dưới thời Pháp thuộc, người Khmer Nam bộ được nhận một đặc
quyền tự do qua lại với Campuchia, mà thuật ngữ thời đó gọi là
Khmer issarak (người Khmer tự do). Các sư sãi Nam tông Khmer
vùng đồng bằng sông Cửu Long được quyền tự do học Pali-vinaya ở
các trường Phật học tại Campuchia; cũng vậy tên các chùa Khmer
vùng Nam bộ cũng do tăng thống Campuchia đặt tên.
2
Có thể xác
định danh tánh một số vị Khmer đã từng học Pali tại Campuchia
1. Vũ Minh Giang (chủ biên) (2008), Lịch sử Vùng Đất Nam Bộ - Việt Nam, NXB Hà Nội, Hà Nội,
tr. 27-37.
2. Huỳnh Kim Dung, Tác động của lịch đối với D sản Văn hóa Phật giáo Nam tông Khmer tỉnh Trà
Vinh. Luận văn tốt nghiệp, (TP. HCM, 2008), tr.22.