PHẬT GIÁO NAM TÔNG TẠI VÙNG NAM BỘ
48
05/7/1935, họ thành lập “An Nam Phật Học Hội” tại Campuchia
để hoạt động, văn phòng đặt tại chùa Sùng Phước.
13
Sau đó, mời cụ
Lê Văn Giảng đến phụ trách nghiên cứu, tu tập, soạn dịch Kinh tạng
truyền bá. Do đó, Phật giáo Nguyên thủy ngày càng ảnh hưởng sâu
vào các tầng lớp Việt kiều.
Tháng 3 năm 1936, chùa Sùng Phước được cụ Lê Văn Giảng cùng
các tín đồ cải sửa thành tu viện Theravāda và gia nhập Giáo hội Phật
giáo Campuchia.
14
Từ đây, tu viện Theravāda trở thành trung tâm
Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam tại Campuchia. Mục đích của tu
viện chủ yếu đào tạo tăng tài, ấn tống Kinh sách, tạp chí, lưu giữ và
nghiên cứu Kinh tạng ngôn ngữ Pāli, Pāli – Miên, Anh, Pháp, Hán,
Việt, Miên. Nhờ đó, những người Việt ở Campuchia có nhiều cơ
hội tìm hiểu Phật giáo Nguyên thủy. Có thể nhận định rằng, chùa
Sùng Phước chính là điểm hoằng pháp Phật giáo Nguyên thủy đầu
tiên của người Việt tại Campuchia, từng bước đặt nền móng cho
quá trình truyền bá chánh pháp về Việt Nam.
Ghi chú thêm, bốn vị cao tăng đầu tiên, khai mở, du nhập Phật
giáo theo truyền thống Nam tông từ Campuchia vào Nam bộ đó
là: người đầu tiên là ông Ngô Bảo Hộ pháp danh Thiện Luật (năm
1934, ông đến chùa Prek-Reng xin xuất gia; năm 1937, thọ giới Tỳ
khưu). Người thứ hai là “Hồ Văn Viên, xuất gia năm 1938, pháp
danh Huệ Nghiêm; Người xuất gia thứ ba là ông Phạm Văn Tông,
xuất gia ngày 19/7/1940, pháp danh Bửu Chơn; Người xuất gia thứ
tư là ông Lê Văn Giảng, xuất gia ngày 15/10/1940, pháp danh Hộ
Tông.
15
Chính những vị hòa thượng này sẽ đóng góp trực tiếp cho
quá trình hoằng pháp chánh pháp tại vùng đất Nam bộ.
Trở về Sài Gòn – Gia Định để hoằng pháp
Năm 1930 được xem là bối cảnh thuận lợi cho sự phát triển các
trường phái Phật giáo và học thuật Phật giáo tại miền Nam Việt
13. Thích Giới Đức (2011), Thắp lửa tâm linh, NXB Thời Đại, Hà Nội, tr. 112.
14. Thích Giới Đức (2011), Thắp lửa tâm linh, NXB Thời Đại, Hà Nội, tr. 112.
15. Thiện Hậu (2017), Phật giáo Nam tông Kinh Việt Nam (1938-1963), NXB Hồng Đức, Hà Nội,
tr. 26-27.