PHẬT GIÁO NAM TÔNG TẠI VÙNG NAM BỘ
52
Ngày 21/7/1949, chùa Kỳ Viên mới (đổi được với chùa cũ) được
cấp giấy phép và được khánh thành ngày 09/10/1949. Tại chùa Kỳ
Viên, cụ Nguyễn Văn Hiểu tiến hành truyền bá chánh pháp một
cách hữu hiệu và có kết quả. Năm 1957, Tổng hội Cư sĩ và Giáo hội
Tăng già Nguyên thủy Việt Nam được thành lập tại chùa Kỳ Viên
24
.
Năm 1961, cụ Nguyễn Văn Hiểu đứng ra vận động quyên góp tài
chính để xây cất Thích Ca Phật Đài (Vũng Tàu).
Trước khi Phật giáo Nam tông Kinh truyền vào vùng đất Sài Gòn
- Gia Định, cụ Lê Văn Giảng và cụ Nguyễn Văn Hiểu là hai người
đầu tiên có ý tưởng du nhập vào Việt Nam Phật giáo theo truyền
thống Nam tông từ Campuchia. Dù là người đầu tiên thai nghén
nhưng ông Lê Văn Giảng không phải là người xuất gia đầu tiên mà
lại là Tỳ khưu Thiện Luật, nhưng vì là người cùng với ông Nguyễn
Văn Hiểu có ý tưởng du nhập Phật giáo Nam tông từ Campuchia,
đồng thời ông là cao tăng có nhiều uy tín và tinh tấn tu hành nên
chư Tăng và tín đồ đều tôn kính xem ông là sơ tổ của Hệ phái Phật
giáo Nam tông Kinh.
25
Nhờ phái đoàn truyền giáo của Hòa thượng
Hộ Tông và nhóm cư sĩ Nguyễn Văn Hiểu thành lập Tổng hội và Giáo
hội năm 1957, thế nên tồn tại cho đến ngày hôm nay. Năm 2017, có
khoảng 129 ngôi chùa, 600 chư Tăng và 400 Ni trên toàn quốc.
26
KẾT LUẬN
Năm 1938 được xem là năm đánh dấu có sự hiện diện của Phật
giáo Nam tông Kinh Việt Nam ở vùng đất Nam bộ, với sự ra đời của
ngôi chùa Bửu Quang. Theo tôi, dòng phái này ra đời có sự đóng
góp rất lớn của tầng lớp trí thức Nam bộ, tiêu biểu là cụ Lê Văn
Giảng và cụ Nguyễn Văn Hiểu. Cả hai cụ đều nhiệt huyết, cống
hiến sức mình cho sự nghiệp hoằng hóa Phật pháp, thành quả đó là
hàng loạt các ngôi chùa Phật giáo Nam tông Kinh ra đời không chỉ
24. Chùa Kỳ Viên, Trung tâm Hộ Tông, http://www.trungtamhotong.org/index.php?module=su-
lieu&function=detail&id=14, truy cập ngày 27/11/2020.
25. Thiện Hậu (2017), Phật giáo Nam tông Kinh Việt Nam (1938-1963), NXB Hồng Đức, Hà Nội,
tr. 18.
26. Thiện Hậu (2017), Phật giáo Nam tông Kinh Việt Nam (1938-1963), NXB Hồng Đức, Hà Nội,
tr. 56.