82
無量壽經 - 漢字
&
越語
N
ẾU MUỐN PHẬT PHÁP HƯNG, DUY CHỈ CÓ TĂNG KHEN TĂNG!
B
ồ-tát. Ngài niệm Quán Thế Âm Bồ-tát hơn một tháng thì mụn độc tự nhiên khỏi.
Cho nên,
Ngài đối với Quán Thế Âm Bồ-tát cứu khổ cứu nạn tin sâu không nghi, tin
ch
ắc Bồ-tát thật sự từ bi, tuyệt đối không có vọng ngữ; niệm Phật, niệm Quán Thế
Âm B
ồ-tát thật có thể giải quyết vấn đề. Danh hi
ệu công đức không thể nghĩ bàn,
ni
ệm lực không thể nghĩ bàn. Thế nhưng tại sao có người niệm thì không linh, Ngài
ni
ệm thì linh vậy? Đó là vì ý ni
ệm của Ngài thuần, Ngài chuyên tâm, không có
nhi
ều vọng tưởng và tạp niệm. Nếu là một lòng chuyên niệm, niệm niệm đều sẽ
linh nghi
ệm.
T
ừ đó, Ngài biết rằng đường sanh tử hiểm, tử sanh là việc lớn, thế là Ngài sanh
kh
ởi tâm xuất gia. Năm Ngài 19 tuổi, anh ba 22 tuổi vì bệnh mất sớm, điều này khiến
Ngài
kiên định đến cùng quyết tâm xuất gia tu hành.
5. Xu
ất gia tu hành. Tôn sư trọng đạo. Năm 1920, Ngài 20 tuổi, tại Thiền tự Vân
Đài trên đỉnh núi Thái Bạch thuộc dãy núi Đồng Bách, nằm ở nơi giao tiếp Hà Nam
và H
ồ Bắc, xuất gia với Đại lão Hòa thượng Truyền Giới. Hòa thượng Truyền Giới
xu
ống tóc cho Ngài, ban cho Pháp danh là Hải Hiền, tự Tánh Thành. Lúc 23 tuổi, đến
chùa Vinh B
ảo ở Hồ Bắc thọ Cụ-túc Giới (Tỳ-kheo giới).
Hòa
thượng Truyền Giới
là m
ột vị Đại đức của hệ phái Bạch Vân tông Lâm Tế nhưng lại không truyền
th
ụ cho Ngài đả tọa tham thiền, cũng không có dạy Ngài giảng kinh thuyết pháp;
ch
ỉ truyền duy nhất sáu chữ hồng danh “Nam mô A Mi Đà Phật” và dặn Ngài
ni
ệm liên tục không được ngừng nghỉ. Lời dạy của thầy, Ngài cả đời y giáo phụng
hành không dám trái ph
ạm.
Ngài xu
ất gia rồi vẫn lao động vất vả để nuôi mẹ già. Từ bé, Ngài đã vang
danh trong thôn quê v
ề hiếu hạnh. Khi còn rất nhỏ, Ngài đã bắt đầu lao động vất vả
ph
ụ giúp chi phí gia đình. Lúc Ngài xuất gia ở núi Đồng Bách là vào những năm đầu
Dân Qu
ốc nắm quyền, quân phiệt hoành hành, thế cuộc rối ren. Mẹ của Ngài và em
trai Ngài
nương tựa lẫn nhau sống qua những ngày tháng gian nan vất vả. Ngài
ở trên
núi khai hoang làm ru
ộng, đào thảo dược đổi lương thực, sau đó đi bộ hơn 100
d
ặm (khoảng hơn 161 km) vác lương thực trên vai mang về quê nhà cúng dường
cho m
ẹ, 9 năm như thế không gián đoạn!
6. M
ẹ được vãng sanh Cực Lạc. Năm Dân Quốc 18 (năm 1929), em trai 22 tuổi của
Ngài
đã bất hạnh qua đời. Lúc này, mẹ của Ngài tuổi tác đã cao lại không người bên
c
ạnh phụng dưỡng, điều này khiến Ngài lo lắng. Ngài đón mẹ đến động Đào Hoa trên
đỉnh Thái Bạch núi Đồng Bách phụng dưỡng, bà sống và niệm Phật trên núi được 27
năm. Năm 1956, mẹ của Ngài đã 86 tuổi đề xuất muốn về quê nhà, Ngài liền theo mẹ
cùng v
ề quê ở thôn Thảo Tự, huyện Đường Hà. Nhà đã không còn nữa. Về đến thôn,
Ngài b
ố trí ổn thỏa cho mẹ sống nhờ nhà một cụ hàng xóm trước và đi tìm thôn trưởng
giúp đỡ. Được sự đồng ý của thôn chi bộ, Ngài thu dọn lại nhà tranh ba gian trong
vườn rau của đội sản xuất rồi dọn vào cùng ở với mẹ. Ngài kể cho chúng cư sĩ của
Ni
ệm Phật Đường Nghĩa Ô ở Nam Dương đến thăm Ngài nghe: “Trong vườn rau có