CÁI QUAN LUẬN ĐỊNH
ẤY THẾ là toàn thể sĩ phu tích cực, cá nhân tích cực, ai không bị giết,
tự sát đều đã vào ngồi trong ngục tối hoặc đã đi Lao Bảo nơi rừng sâu
Quảng Trị, hoặc lên đường đi Côn Lôn, tập quen với trường học thiên nhiên
ở giữa đại dương. Thời kỳ này, có lẽ lần đầu trong lịch sử chính trị Việt Nam
mà sự tù tội không còn bị xem bằng con mắt hãi hùng, vô vọng mà được
nhìn như nơi huấn luyện cần thiết cho bậc anh tài. Phan châu Trinh ngạo
nghễ « Nam nhi hà phạ sự Côn Lôn » (Thân trai nào sợ cái Côn Lôn) dù ông
là người đứng đầu sổ tù nơi cô đảo ấy thì Huỳnh thúc Kháng chỉ bình tĩnh và
khoa học gọi nó là « trường học thiên nhiên » như một chính trị gia thành
thực muốn tiến bộ.
Cũng nhờ có Côn Lôn mà đường đất xa khơi trên đất nước không làm
cho các chí sĩ gặp nhau dễ dàng dù vẫn thân nhau, bây giờ mới thật là đại
đoàn viên.
Vào khoảng tháng tám năm 1908 Huỳnh thúc Kháng ghi : « Lúc bấy
giờ cùng đi với tôi có Phan thúc Duyên
Lê bá Trinh, Trương bá Huy,
Dương phu Thạc cùng hương Cảnh (Phước Yên) Hương Quần (Địch Thái),
người cựu đảng Cần Vương Tiểu La, cả thảy tám người, do chuyến xe lửa
đường Hội An ra Đà Nẵng lên tàu thủy. Tại khoang thuyền phía sau, một
đoàn xiềng gông lang thang, té ra thân sĩ Nghệ Tĩnh cùng dân bị án đầy
Côn Lôn. Lần hỏi ra mới rõ : Ngô đức Kế, Đặng nguyên Cẩn, Lê văn Huân,
Đặng văn Bá, đều là bạn từ lâu đã giao nhau trên đường tinh thần chớ chưa
lần nào xáp mặt, nay mới thấy qua đã như người cũ, cùng Đồ Tịnh, Đội
Phương, Lý Tư, Lý hạ Lôi, Hương Hợp. Kế Thừa Thiên : Lê đình Mộng
cũng bị giải lên Tàu. Đến Bình Định vào cửa Thị Nại có thân sĩ và Dân
Nghĩa, Định xiềng xích lên thuyền : Nguyễn đình Quản, Hồ Khê, Nguyễn
Sụy, Nguyễn Mai, Phạm cao Chẩm, Nguyễn Tuyên (Quảng Ngãi) ; học sanh
Bình Định : Hồ như ý, Hương Đôn cùng dân : Chi, Tịnh, cộng tất cả đồng
thuyền 27 người, đến Sài Gòn vào khám cúp tóc
thay áo quần, ở lại độ