Khi còn làm việc cho một công ty cổ phần, mức lương cao nhất mà Nina
Gomez từng nhận được là 120.000 đôla/năm trước khi công ty này bị phá
sản. Cô quyết định sẽ nghỉ ngơi một thời gian. Trong vòng 5 năm sau đó,
cô làm việc bán thời gian với nhiều cương vị khác nhau và nhận được các
mức lương khiêm tốn hơn nhiều so với trước. Nó chỉ dao động vào khoảng
20.000 tới 50.000 đôla mỗi năm. Thời gian này cũng là lúc cô kiếm tìm cơ
hội để trở thành chủ doanh nghiệp.
Cuối cùng, Nina cũng tìm thấy một công ty in nhỏ đáng mua. Công ty này
có doanh thu hàng năm khoảng 1 triệu đôla song thu nhập khả dụng chỉ vào
khoảng 30.000 đôla (thấp hơn nhiều so với quy mô của doanh nghiệp và
đang có chiều hướng suy giảm). Nina đạt được thỏa thuận với chủ doanh
nghiệp trên về việc định giá công ty ở mức 160.000 đôla. Đầu tiên cô sẽ bỏ
ra số tiền 40.000 đôla để mua 25% quyền sở hữu công ty, và trong tương
lai, cô có thể đẩy con số này lên mức 50%. Công ty này có thể sẽ mang lại
cho cô mức thu nhập 45.000 đôla mỗi năm, cộng với một số khoản bù đắp
chi phí khác. Như vậy, cô sẽ thu hồi được vốn sau một năm, đồng thời có
thể tích lũy để góp thêm vốn vào công ty.
Với sự giúp đỡ của Nina, tỷ lệ lợi nhuận cận biên của công ty đã tăng đáng
kể, và ngoài phần tiền lương được nhận, Nina còn đề nghị công ty sẽ chia
thêm lợi nhuận cho các chủ sở hữu. Cô dự đoán rằng lợi nhuận phân phối
sẽ ít nhất là ngang bằng với mức lương hiện tại của mình (như vậy, mỗi
năm, cô sẽ nhận về 90.000 đôla hoặc nhiều hơn). Và khi công ty phát triển,
phần vốn đóng góp của cô sẽ có giá trị lớn hơn nhiều. Nina nhận thấy rằng
nếu đem so sánh với việc bỏ ra 40.000 đôla để mở một công ty thì ngoài
việc bỏ qua khoản tiền lương 45.000 đôla mỗi năm, cô cũng không thể
nâng nguồn vốn của mình lên đáng kể chỉ sau một năm. Hiện tại, cô sở hữu
25% giá trị một công ty có doanh thu hàng năm là 1 triệu đôla (tương
đương với việc cô có được khoản doanh thu là 250.000 đôla mỗi năm).