ngắn lên bàn. Chúng bê một cái khay bên trên đặt những năm li nước, hay
bưng một bát to đựng đầy canh nóng qua lại giữa các bàn, vậy mà không trẻ
nào bị thương, làm vỡ kính hoặc để canh bị sánh ra ngoài. Trong bữa ăn, “nữ
phục vụ bàn” lặng lẽ phục vụ mọi người, rất tập trung vào việc mình đang
làm. Nếu như có ai đó đã dùng xong một món, nữ phục vụ bàn sẽ nhanh
chóng tự giác mang bát đĩa đã dùng xong đi. Không có ai phải gọi phục vụ
bàn đến lần thứ hai, hay phải ra hiệu với phục vụ bàn rằng mình đã dùng
xong món.
Bất kì ai được chứng kiến cảnh này cũng đều sẽ cho rằng có ai đó đã đứng
ra đốc thúc hành vi của trẻ, nhất định đồ đạc sẽ bị trẻ làm cho lộn xộn và đổ
vỡ, trông chờ người khác phải ra tay giúp đỡ. Đây là một cảnh khiến cho
mọi người cảm động, rõ ràng được bắt nguồn từ tiềm năng ẩn giấu trong sâu
thẳm tâm hồn con người. Tôi thường phát hiện thấy, khi khách tham quan
chăm chú quan sát cảnh những đứa trẻ này mở tiệc, trong mắt họ đều trào
dâng những giọt nước mắt. Kiểu kỉ luật này chắc chắn không phải được xây
dựng nên từ những mệnh lệnh, răn đe hay biện pháp trừng phạt nào đó nhằm
mục đích duy trì trật tự.
Dựa vào khiển trách và yêu cầu để duy trì kỉ luật chỉ là việc làm vô ích.
Những biện pháp này có thể khi bắt đầu sẽ cho người ta ảo tưởng rằng nó rất
có hiệu quả ở một mức độ nào đó. Nhưng rất nhanh sau đó, khi yêu cầu thể
hiện tính kỉ luật thực sự thì cái ảo giác méo mó này sẽ sụp đổ khi đối diện
với hiện thực: “Bóng tối phải nhường chỗ cho ánh sáng”.
Thoạt nhìn, kỉ luật được bắt nguồn từ lao động. Tại một thời điểm đặc biệt
nào đó, trẻ em sẽ tỏ ra rất nhiệt tình với những bài học. Sự nhiệt tình này
được thể hiện trên khuôn mặt trẻ, mức độ tập trung chú ý và tính thống nhất
trong quá trình hoàn thành luyện tập của trẻ chúng ta đều có thể nhìn ra
được. Trong hoàn cảnh này, trẻ sẽ bộc lộ rõ khuynh hướng tạo nên tính kỉ
luật. Cho dù là trong trường hợp đặc biệt, khi luyện tập phản ứng tâm lí,
nhìn chăm chú vào thứ gì đó hay là rửa bát đĩa... thì cũng đều có thể thể hiện
được khuynh hướng kỉ luật của trẻ em.