trường kỳ chuẩn bị chống trả vì bệnh này không phải một sớm một tối có thể chữa khỏi, tạp chí y học
Duy Dã Nạp đã đăng: “Ở một nơi thuộc miền Đông nam Âu châu có thói quen ưa ăn Tỏi, chỗ ấy rất ít
bệnh Ung Thư”.
Nhân đây thấy trong Tỏi có chứa Allin có thể điều chỉnh ký sinh trùng trong Ruột, lại có tác dụng trừ
độc làm cho các chất độc trong Ruột trở nên công hiệu chế ngự Ung Thư. Đó là chỗ chúng tôi thường
bảo bệnh nhân nên chế thành thức ăn để trở thành tập quán hàng ngày, nếu một ngày có mười người
không làm thì sao kết quả! Lại như dùng độc để công độc có thể áp dụng trị Ung Thư, nhưng phải nên
hợp dụng với các vị thuốc bài tiết để đưa chất độc ra ngoài. Khi khối Ung Thư đã tiêu thì sự điều bổ
cũng chớ nên xem thường.
Tôi thường nghiên cứu các thứ thuốc và phương pháp trị Ung Thư của các nước, chỗ tôi cảm thấy sâu
xa là đối với bệnh Ung Thư rất nghèo nàn võ khí tác chiến, chỉ có một mớ Lục Quân và một mớ Hải
Quân, hoặc một mớ Không Quân không thể tổng thể phối hợp cho nên bán đồ nhi phế
[20]
, một Lương y
người Nhật đã từng đem chất Ô Đầu, Mộc Qua chế thành thuốc Carcinolysin để tiêm dưới da, thường
ghi vào hàng thuốc trị Ung Thư đạt được công hiệu 35%. Sau này tiêu trầm biệt tăm biệt tích. Do đó
mà có một số lớn người trên thế giới quan niệm rằng bệnh Ung Thư không có thuốc trị. Phải biết rằng
chỗ không có thứ thuốc nào trị được bệnh Ung Thư chính đó cũng là có thứ thuốc trị khỏi. Vì sao thế?
Vì trên thế giới này không bao giờ có sự tuyệt đối. Có thể nào nói: Người Trung Quốc xưa không bị
bệnh Ung Thư được không? Ở đời Hán, đời Đường đã từng dùng Rắn độc, Cóc, Nhau người, phép cứu
để chữa trị các thứ sưng độc. Đến sau này sự trị liệu của Trung Quốc được tiến bộ đều do những món
thuốc đơn giản mà tổ chức lại thành phương tễ, hoặc hoàn, hoặc tán.
Loài người tiến hóa vốn từ đơn giản mà lần đến phức tạp. Đến đời Tống, đời Minh thuốc thang càng
thêm phong phú, thậm chí phương pháp dùng ngoài cũng rất dồi dào. Sự thật dập tắt bệnh Ung Thư là
một công tác khó khăn, là một nhiệm vụ thiêng liêng, không nên cố chấp sự thấy biết riêng mình, không
nên bảo thủ thành pháp, phải nên bỏ cái dở tìm cái hay, dung hợp Đông, Tây vận dụng thực nghiệm
khoa học để phát huy dược vật Đông phương đã từng kinh nghiệm trị Ung Thư, để vì loài người mà
diệt trừ một thứ bệnh nguy hiểm vậy.
Gần đây có một vị giáo sư đại học ở Hồng Kông nói với tôi rằng: “Trung y tuy có chỗ sở trường đặc
biệt của nó nhưng chỉ vì chưa từng trải qua sự thí nghiệm ở loài Thỏ hoặc Chuột nên không thể chứng
minh được phương pháp đó là khoa học hay không?” Xem chừng ông hoài nghi việc Trung y trị được
bệnh Ung Thư. Ông có hay đâu sự thí nghiệm của Trung y là chỗ đã trải qua thực nghiệm của nhiều
người, không thể nói sự thực nghiệm trực tiếp ấy không được đúng bằng thử vào loài Thỏ hoặc loài
Chuột. Nói như thế có thể là người biết một mà không biết hai vậy.
Lời bàn của dịch giả
Khi chưa biết rõ chỗ khởi nhân của bệnh Ung Thư thì bất cứ một loài vật nào, dẫu cho ngay bây giờ
chưa mắc phải bệnh Ung Thư, cũng đều có thể gọi là nằm trong thời kỳ của bệnh Ung Thư tiềm phục.
Đứng trên quan điểm của tác giả mà bảo rằng nhờ phương tiện vật chất máy móc nên bệnh Ung Thư dễ
được phát giác sớm không bằng nói rằng nhờ cái đạo tịch tĩnh, giác ngộ, dưỡng sinh không được
Xương Minh nên bệnh Ung Thư mới có chỗ hoành hành cho khoa học có được vận hội tổ chức dụng cụ
vật chất máy móc để phát giác sớm.