QUẢN TRỊ TRONG THỜI KHỦNG HOẢNG - Trang 84

Tại Mexico, tỷ lệ sinh của phụ nữ đang độ tuổi sinh đẻ ngày nay thấp

hơn nhiều so với năm 1938. Nhưng số trẻ em sống sót đến tuổi trưởng
thành cao gấp 3 đến 4 lần đã cho thấy sự tăng trưởng lớn trong dân số và số
người trẻ tuổi.

Ở châu Mỹ La tinh, sự gia tăng này mới được bắt đầu từ năm 1960. Khi

thành lập “Liên minh Tiến bộ” dưới thời tổng thống Kennedy, các chuyên
gia hoạch định cho liên minh này đã không tính đến sự thay đổi trong cơ
cấu dân số. Họ đã dự đoán được sự sụt giảm khiêm tốn và chậm chạp của
tỷ lệ tử vong trẻ em, nhưng không lường trước được thực tế đã xảy ra trong
5 năm tiếp theo, từ năm 1960 đến năm 1965 - giai đoạn mà số lượng người
trẻ tuổi sống sót tăng lên rất cao.

Tỷ lệ trẻ em sống sót ngày càng cao hơn làm cho càng có nhiều thanh

niên trong độ tuổi làm việc hơn trên thị trường lao động vào những năm
1980, và trong suốt những năm còn lại của thế kỷ này, việc tạo ra công ăn
việc làm đã trở thành vấn đề lớn nhất và đáng quan tâm nhất của các nước
thuộc thế giới thứ ba. Chỉ cần có việc làm, vấn đề lương thực sẽ được giải
quyết.

Phải đến năm 2010, dân số các nước đang phát triển mới đạt được trạng

thái cân bằng tương đối. Sự phát triển này tiến tới sự tăng trưởng hài hòa
hơn và chậm chạp hơn như đã diễn ra ở Hồng Kông, Đài Loan, Singapore,
Hàn Quốc - những nơi in đậm được dấu ấn trong nền văn hóa và truyền
thống của dân tộc mình. Thậm chí tại châu Mỹ La tinh, các nước ở khu vực
này cũng nỗ lực tiến tới sự cân bằng dân số và tăng trưởng chậm. Và tại các
nước “xã hội chủ nghĩa” như các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á và
một số nước xã hội chủ nghĩa tại châu Phi thì nạn đói - kết quả của những
vấn đề chính trị - đã làm thay đổi tỷ lệ sống sót, đặc biệt là tỷ lệ sống sót
của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.