Tôi đi men xuống bờ cỏ cho đỡ trơn, nhưng mà sao nhiều gai xấu hổ
thế. Chỉ một chân có dép nên bước thấp bước cao, một tay xách chiếc dép
đứt quai kia, thất thểu như bại trận, Chính con phải dắt đi. Được nghỉ giải
lao ở một bãi tha ma, hai đứa cùng chui xuống một ngôi mộ, nằm lăn ra
cạnh hai cậu lính 12ly7 chốt ở đó. Đấy là hầm của họ, vách hầm còn thấy
một góc quan tài chòi ra. Những người khác thì nằm dọc lề đường mà ngủ
vì quá mệt, mặc ướt, mặc sương và muỗi.
Đến lúc nghe có tiếng gọi í ới, tôi và Chính chui lên thì không thấy ai
cả. Hai thằng cắm cổ chạy, Chính bắn đạn lửa để liên lạc. Thấy nhiều lối rẽ,
chúng tôi đã hoảng, nhưng cứ đi bừa. May quá, gặp anh Phùng, Chính trị
viên đại đội và cậu liên lạc đang đứng đợi. Anh xạc cho một trận, tôi cúi
đầu nghe nhưng trong lòng rất mừng vì không bị lạc.
Trời đã sáng bảnh mà chúng tôi vẫn loanh quanh hết làng này đến làng
khác. Qua một đêm đứa nào cũng mệt phờ râu. Có lệnh tản ra nghỉ. Chí
Thành và cậu Bắc thông tin treo ăng-ten lên cây thông, mở máy vô tuyến
2W liên lạc với Tiểu đoàn, nhưng không được. Tôi xin mấy hột cơm sấy
của bọn B3, ngồi nhấm nháp. Mọi người đã định nấu ăn thì có lệnh đi tiếp
vì đã tìm được tiền trạm. Như vậy là ngày hành quân thứ hai bắt đầu.
Đoàn quân băng qua đồng, qua làng, qua nghĩa địa công giáo với
những ngôi mộ đen to tướng có cắm thập ác. Đến gần một cổng làng, thấy
bên trên có hàng chữ đắp nổi đã tróc sơn “Tri ân Ngô Tổng thống”. Làng
này cũng bị B52 đánh be bét, tre chuối rũ rượi, cành lá vương vãi khắp nơi.
Đất hố bom mới đào xám đen, địa hình trống trải. Ở đây chúng tôi gặp anh
Khuông “Quảng Bình”, trước là B trưởng B1, nay vừa lên Đại đội phó,
người chỉ huy đi tiền trạm. Tất cả tập hợp ở một ngôi nhà gần đấy. Chí
Thành lại mở máy gọi Tiểu đoàn bộ. Tôi ngồi ngay cạnh, chợt nghe có
tiếng léo nhéo trong máy: một giọng nói lạ, một tên địch!. Chí Thành đối
đáp cò cưa với hắn vài câu, rồi tắt máy.