thế”. Mà đẹp thật, cứ 5 viên xanh 1 viên đỏ, nối tiếp nhau như một chuỗi
ngọc dài dặc.
Cuối cùng chúng tôi cũng xác định được vị trí của khẩu đại liên sau
một mô đất. Anh Thanh nhổm lên ném một quả lựu đạn. Tôi nhìn theo, nó
nổ cách mục tiêu khá xa, chắc vì khi ném không đủ đà. Tôi nói với anh
Thanh: “Anh bắn yểm trợ cho em ném nhé!”. Anh nói “Được”. Rồi vẫn nấp
ở bên dưới, nhưng 2 tay anh nâng súng lên khỏi miệng hào, chĩa về phía
khẩu đại liên xả đạn liên tục. Bị bắn rát quá, súng địch tạm ngưng 1 lúc.
Nhân thời cơ đó, tôi bật chốt quả mỏ vịt, đếm đến 4, rồi đứng thẳng người
lên, dùng hết sức vung tay lấy đà ném nó đi. Quả lựu đạn rơi trúng sau mô
cát, chạm đất nổ ngay. Trong quầng sáng mầu da cam còn kịp thấy khẩu đại
liên cùng hai bóng người bị nhấc lên rồi rơi phịch xuống. Hỏa điểm địch
câm bặt, nhưng vị trí của tôi cũng bị lộ rồi. Tôi vừa nằm xuống thì hàng
chục quả M79 đã bay đến tới tấp.
Sau mỗi tiếng “cạch oành” là hàng trăm viên bi bay đi rào rào. Rồi
M72, cối 81, pháo 105... nổ liên tục. Đạn rít chíu chíu, mảnh bay vèo vèo,
rơi lịch xịch khắp nơi. Tất cả chúng tôi nằm ép người xuống con hào nông
choèn, chịu trận. Địa ngục chắc cũng chỉ đến thế này mà thôi. Chợt như có
ai cầm cái búa đinh giáng thẳng vào phía sau đỉnh đầu tôi. Mắt tôi nổ hoa
cà hoa cải, một dòng máu nóng chảy từ đầu xuống cổ. Một mảnh pháo nhỏ
đã xuyên qua chiếc mũ cối, cắm phập vào vùng chẩm sau đầu, làm lún một
mẩu xương sọ. Tôi chỉ kịp “hức” lên 1 tiếng, rồi chìm ngay vào đêm tối
mênh mông...
Các bạn thân mến, cuộc chiến đấu của tôi trên Chiến trường Quảng Trị
đến đây là hết. Dứt cơn bão lửa, thấy tôi còn thở, anh Tài B phó đã cõng tôi
chạy về tuyến sau. Rồi được hai cậu lính vận tải khiêng võng đưa về Phẫu
tiền phương 62 bên bờ một con lạch. Ngay đêm hôm sau tôi được chở bằng
xuồng máy, chắc là xuôi sông Thạch Hãn, qua kênh đào nối với sông Bến
Hải, ra Phẫu 48 Vĩnh linh.