Tôi dậy đầu tiên, trời sáng đã lâu. Anh Đạm B phó gọi các A đi lĩnh
thực phẩm. Tôi sang gọi Duy Minh mang quang gánh cùng đi lĩnh với tôi.
Xe ô-tô của binh trạm chở tới gạo, thịt, bí, miến… để phân phát. Tôi gặp
Phổ Thọ, hai đứa nói chuyện, tôi mua bánh tai voi mời nhưng Thọ không
ăn.
A phó Duy Minh đảm nhiệm việc chia thực phẩm cho các tổ. Tôi lấy
giấy bút viết bức thư đầu tiên về nhà. Buổi trưa còn thừa ít gạo hôm trước,
Minh đem bán để mua miến chiều nấu với thịt. Anh Bính tập hợp B, sau
một hồi kiểm điểm, tới mục đề nghị, tôi xin phát biểu về vấn đề mang đạn.
Thùng đạn 12kg, như vậy A tôi phải mang nặng hơn các A khác nhiều (mỗi
A khác chỉ phải mang một khẩu B40). Vì A tôi có nhiều người nhỏ yếu, tôi
đề nghị mỗi A thay phiên nhau mang đạn một ngày. Anh Bính không tán
thành. Tôi bèn phân công luôn cho Phái “con”, Đường “cóc” khiêng thùng
đạn, nhưng hai cậu này không chịu. Kết quả, buổi chiều khi chúng tôi đi,
hòm đạn vẫn nằm trỏng trơ ở góc sân. Ra đến chỗ tập hợp Đại đội, anh
Đạm mới lễ mễ bê đạn chạy theo. Rốt cục anh Bính và C bộ phải đồng ý
mỗi A vác đạn một ngày, nếu đi bộ thì mỗi A vác 3 tiếng thay phiên.
Từ 4 giờ chiều chúng tôi bắt đầu hành quân bộ. Trời xám xịt. Tôi cảm
thấy khoảng cách ra đường cái rất gần, mà đêm qua sao nó xa thế.
Trên đường đi, Chính con và Đường cóc hay đùa nghịch, có khi chạy
ra khỏi hàng quân, đuổi nhau rơi cả xuống hố. Tỵ đi cạnh tôi, luôn mồm kể
chuyện tiếu lâm. Tới nửa đêm thì tới một bến phà. Ngồi đợi phà mà bụng ai
cũng lo vì phà này hay bị đánh phá. Chắc đây thuộc địa phận Ninh Bình
hay Thanh Hóa rồi. Xe, người lộn xộn xuống bến. Anh Mạnh C trưởng có
lúc phải rút súng ngắn để ngăn xe lại cho lính của mình lên phà. Sàn phà có
nhiều lỗ thủng, thấy nói là vết đạn. Đông quá, đứng chen chúc, tôi cố gắng
hết sức để tập trung tiểu đội vào một chỗ. Ca-nô dìu phà từ từ qua sông.
Ánh đèn gầm của xe trên bến cũ le lói, xa dần. Thấy mờ mờ mấy khung sắt
của cây cầu gãy nhịp. Bóng đen của quả núi trước mặt như muốn đổ sập lên