Quốc gia khởi nghiệp Ebook.vn
hạn chế. Giải pháp của Ornet Data là tạo ra một switch cho các máy tính được kết nối này,
từ đó nhân băng thông lên 50 lần theo tính toán của Berry.
Ornet Data chỉ có vài nhân viên ở Karmiel, thành phố phía Bắc Israel, và một văn phòng tại
Boston được Berry sử dụng khi bà ghé vào thành phố. Trong những ngày đầu tiên của công
ty, bà liên tục bay đến Mỹ để gây vốn, nhưng sớm nhận ra không có ai sẵn lòng.
“Không có cơ chế nào dành cho việc tài trợ những dự án mới chỉ ở giai đoạn đầu với rủi ro
cao, trong bối cảnh thiếu vắng đầu tư mạo hiểm trong nước”, bà nói với chúng tôi
[]
.
Đầu tư mạo hiểm là khoản vốn đầu tư thường đổ vào các công ty công nghệ tăng trưởng
cao. Nhưng đối với hầu hết nhà đầu tư nước ngoài, đổ tiền vào Israel có vẻ vô lý. Với họ,
Israel đồng nghĩa với các tôn giáo cổ xưa, những phát hiện khảo cổ và xung đột chết người.
Ngay cả những nhà đầu tư từng thán phục trình độ nghiên cứu và phát triển của Israel cũng
hoảng sợ trước làn sóng bạo lực đi kèm cuộc nổi dậy của người Palestine (còn gọi là
Intifada) vào cuối những năm 1980. Đó là trước khi Dov Frohman quyết định duy trì hoạt
động của Intel trong Cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991.
Theo John Medved, nhà sáng lập Israel Seed Partners, “bạn có thể đàm phán với một quỹ
đầu tư Mỹ bao lâu cũng được, và họ sẽ cười vào mặt bạn khi nghe bạn nói: ‘Hãy đến đầu tư
vào Israel’.”
[127]
Sự khan hiếm vốn đầu tư mạo hiểm (Venture Capital - VC) của Israel trong suốt những năm
1980 còn tạo ra một vấn đề khác. Ở phương Tây, vai trò của những nhà đầu tư mạo hiểm
không đơn thuần chỉ là cung cấp tiền mặt. Chính vai trò dìu dắt, giới thiệu đến mạng lưới
của những nhà đầu tư, những tay thâu tóm doanh nghiệp tiềm năng khác, cũng như các đối
tác và khách hàng mới là điều khiến ngành đầu tư mạo hiểm trở nên đáng giá đối với một
doanh nghiệp mới thành lập. Một quỹ VC tốt sẽ giúp doanh nhân xây dựng công ty.
“Rõ ràng khi ấy Israel đang thiếu một điều gì đó”, Yigal Erlich, một nhà lãnh đạo khoa học
từng làm việc trong chính phủ vào cuối những năm 1980 cho biết: “Người Israel rất giỏi
phát triển công nghệ, nhưng lại không biết cách quản lý công ty hoặc tiếp thị sản phẩm”
[128]
.
Doanh nhân Israel phải có tư duy toàn cầu ngay từ ban đầu, tạo ra những sản phẩm cho các
thị trường cách xa nhiều ngàn dặm và thuộc các múi giờ khác nhau. Nhưng câu hỏi nghiêm
túc được đặt ra là: Làm sao để bản địa hóa sản phẩm cho từng thị trường? Làm sao để sản
xuất, tiếp thị và cuối cùng là phân phối sản phẩm đến các khách hàng cách xa bờ biển Địa
Trung Hải?
Trước khi có đầu tư mạo hiểm, ở Israel chỉ có hai nguồn quỹ. Thứ nhất, các doanh nghiệp
mi thành lập của Israel có thể đăng ký nhận trợ cấp phù hợp tại OCS (Office of the Chief
Scientist - Văn phòng trưởng khoa học Israel). Tuy nhiên, những khoản trợ cấp nđủ số tiền
mà các công ty mới khởi nghiệp này thật sự cần, và kết quả là hầu hết đều vô tác dụng. Một
báo cáo chính phủ xuất bản vào cuối những năm 1980 cho biết 60% số công ty công nghệ