QUỐC GIA THĂNG TRẦM - LÝ GIẢI VẬN MỆNH CỦA CÁC NỀN KINH TẾ - Trang 481

Piñera tại nhiệm từ 2010 đến đầu 2014, và dữ liệu của Ngân hàng Thế giới
cho thấy chỉ số Gini của Chile về bất bình đẳng giảm từ 52 vào 2009 xuống
50,45 vào 2013.

Sự bất bình đẳng đã gia tăng ở Ấn Độ: 20% người giàu nhất kiếm được
44,2% thu nhập trong năm 2011, tăng từ mức 42,3% trong năm 2004.

Trong vài trường hợp, tôi liệt các trùm tư bản trong các ngành công nghiệp
sạch như tỷ phú bất hảo, do dính líu đến tham nhũng chính trị được tài liệu
nêu rõ.

Tiếng Đức: “Công ty quy mô vừa và nhỏ”. (ND)

Mức thông thường ở đây được định nghĩa bằng cách sử dụng hồi quy đơn,
so sánh tỷ trọng chi tiêu của chính phủ trong GDP với GDP bình quân đầu
người. Dữ liệu chi tiêu của chính phủ được lấy từ IMF, gồm chính quyền
trung ương, tiểu bang và địa phương và các khoản chi bao trùm mọi thứ từ
lương công chức đến tiền phúc lợi trợ cấp.

Được định nghĩa bởi Jordà, Schularick và Taylor là ít nhất một độ lệch
chuẩn.

Tôi chỉ tập trung vào các nền kinh tế lớn bởi vì tài khoản vãng lai ở các
nước nhỏ có thể biến động mạnh với một khoản đầu tư lớn từ nước ngoài,
làm sai lệch kết quả. Lớn được định nghĩa là một nền kinh tế đại diện cho ít
nhất 0,2% GDP toàn cầu, mà vào 2015 sẽ là một nền kinh tế lớn hơn 150 tỷ
đô-la.

Tôi nói “dưới một hình thức nào đó” vì định nghĩa này bao gồm khủng
hoảng ngân hàng, tiền tệ, lạm phát hoặc nợ như định nghĩa của Carmen
Reinhart và Kenneth Rogoff. Dữ liệu về các cuộc khủng hoảng này ứng với
34 trong 40 trường hợp, và 31 trong số đó, tức 91%, đã gánh chịu ít nhất
một trong các cuộc khủng hoảng này.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.