Đầu tiên, dựa trên nguyên tắc đầu tư dài hạn, không chỉ nhìn vào
ROE của một năm cụ thể mà dữ liệu phải được tính toán trong vòng
5 đến 10 năm. Doanh nghiệp có ROE trong 10 năm vẫn ổn định ở
một mức độ đáng kể thì lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu sẽ có thể
tăng trưởng ổn định trong tương lai; thứ hai, đối chiếu giá cổ phiếu
của công ty để phân tích các ROE, những thay đổi trong giá cổ
phiếu sẽ tác động trở lại trên vốn chủ sở hữu, chẳng hạn như: Lợi
nhuận sau thuế (tử số) cao, nếu giá cổ phiếu tăng sẽ dẫn đến lợi
nhuận quyền lợi cổ đông (mẫu số) tăng theo, con số lợi nhuận trên
vốn chủ sở hữu như vậy không phải là lý tưởng. Ngoài ra, giá cổ
phiếu giảm chắc chắn sẽ dẫn đến vốn chủ sở hữu của cổ đông
giảm, thậm chí lợi nhuận sau thuế ít, nhưng lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu có khả năng cao.
Hơn nữa, cần chú ý đến lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh chính
của công ty. Khi xem các khoản lợi nhuận và lỗ, các nhà đầu tư
không nên nhìn vào lợi nhuận ròng, mà phải chú ý đến "thu nhập
ngoài hoạt động kinh doanh". Ngoài ra, chúng ta phải xem xét liệu
công ty đó có giảm giá trị vốn cổ đông bằng cách như bán tài sản
hoặc công ty con để mua lại cổ phần, làm suy yếu giá trị hiện tại để
tăng cường mức độ của ROE. Chỉ có lợi nhuận hoạt động kinh
doanh chính tăng để cải thiện ROE của công ty thì mới xứng đáng
để nhà đầu tư đánh giá cao.
Cần lưu ý kết hợp với tình hình nợ phải trả trên bảng cân đối kế
toán để kiểm tra ROE. Công ty có thể làm cho việc sử dụng nợ lên
cao để tăng lợi nhuận ngắn hạn, làm như vậy sẽ giúp giảm các nguy
cơ tài chính dài hạn. Nếu giữ trách nhiệm lớn hơn, vốn chủ sở hữu
của các cổ đông sẽ tương đối nhỏ, nhưng lợi nhuận được tạo ra bởi
tất cả các tài sản, con số ROE như vậy được xem là quá cao. Trong
trường hợp các khoản nợ nhỏ, lợi nhuận của doanh nghiệp không
thấp mới là lí tưởng.
Vì vậy, các nhà đầu tư nên đem các chỉ số tài chính như tỉ số lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ lệ nợ (như tỷ lệ tài sản, trách
nhiệm), thu nhập không định kỳ (thu nhập ngoài hoạt động), tỉ lệ