Trong số tranh trưng bày, hầu hết là sơn dầu, có mỗi bức sơn mài lấy tên Cô
gái và chim đại bàng khổ một mét và tám tấc. Trong bức này, ông vẽ một cô
gái tóc dài, góc phía trên có con chim ó, tông chính màu vàng đất. Trong đợt
triển lãm, ông Tùy viên văn hóa Tòa Đại sứ Mỹ đến xem và hỏi giá. Trước
giá tranh tương đương hai lượng vàng lúc đó, ông ta xin... trả góp. Cuối
cùng việc mua bán không thành. Đó là câu chuyện nhắc lại cho vui, nhưng
phần nào khiến Hồ Hữu Thủ tin rằng mình có thể dùng chất liệu sơn ta để
làm nên những tác phẩm sơn mài mang tính mỹ thuật thực sự.
Sau 1975, các họa sĩ Sài Gòn dùng sở trường của mình kiếm sống bằng
nhiều cách vì lúc đó không có thị trường tranh. Họ vẽ bìa sách, vẽ tranh cổ
động, trình bày báo. Lúc đó, nền mỹ nghệ miền Nam thoái trào cũng vì mất
thị trường. Các hãng mỹ nghệ danh tiếng như Trần Hà, Thành Lễ sau thời
gian phát triển tột đỉnh đã ngưng hoạt động. Họa sĩ Hồ Hữu Thủ tiếp tục dạy
học tại Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định, lúc đó đã đổi tên thành Cao đẳng Mỹ
thuật thành phố Hồ Chí Minh.
Chân dung Hồ Hữu Thủ tự chụp.
Đến cuối thập niên 1980, nhu cầu tranh sơn mài bỗng dâng cao từ nước
ngoài, trong giới chơi tranh phương Tây và trong cộng đồng người Việt
thành đạt tại hải ngoại. Họ là những người từng mơ ước có những bức tranh
sơn mài cao cấp nhưng khi xưa không có điều kiện với tới. Một người Pháp
tìm đến Sài Gòn và muốn mua tranh sơn mài một số họa sĩ đã từng nổi tiếng
tại Sài Gòn mà ông biết tiếng như Nguyễn Phước, Nguyễn Lâm, Nguyễn
Văn Rô và Hồ Hữu Thủ. Các họa sĩ này được sáng tác theo ý thích của