được sao chép hay tải lên mạng, vì vậy chúng biết mối nguy hại vẫn
được giới hạn trong cái đĩa này mà thôi.”
“Đúng vậy.”
“Giờ thì nói tôi nghe xem. Tại sao kẻ nắm giữ dữ liệu được chép
lên cái đĩa lại cho phép tạo ra một bản sao? Không tạo ra một bản sao
nào thì có phải tốt hơn không? Chẳng phải như thế sẽ an toàn hơn ư?”
“Có lẽ sẽ an toàn hơn, nhưng cũng mạo hiểm hơn. Nếu có chuyện
gì đó xảy ra với bản gốc, tất cả các dữ liệu của anh sẽ biến mất. Anh sẽ
muốn một thứ dự phòng.”
Tôi cân nhắc. “Còn gì nữa không?”
“Chà, như anh biết đấy, nó đã được mã hóa.”
“Ừ.”
“Sự mã hóa này thật kì lạ.”
“Cậu cứ nói thế nãy giờ.”
“Anh đã từng nghe về thuật toán “thu gọn dàn” chưa?”
“Tôi nghĩ là chưa.”
“Đó là một loại mã. Người viết mật mã mã hóa một thông điệp
theo một khuôn mẫu, khuôn mẫu này giống như những bông hoa trong
một mẫu hoa văn đối xứng của giấy dán tường vậy. Nhưng hoa văn
trên giấy dán tường là loại đơn giản - chỉ là một hình ảnh hai chiều.
Một loại mã phức tạp hơn dùng một khuôn mẫu lặp lại chính nó ở
nhiều tầng lớp chi tiết khác nhau, theo nhiều chiều toán học. Để bẻ
mã, anh phải tìm được cách cơ bản nhất mà cái dàn này lặp lại chính
nó - khuôn mẫu gốc, nếu nói theo một cách khác.”
“Tôi hình dung được rồi. Cậu có thể bẻ nó không?”
“Tôi không chắc. Tôi từng làm việc với thuật toán “thu gọn dàn”
ở Fort Meade, nhưng cái này thật kì lạ.”
“Harry, nếu cậu nói thế một lần nữa...”
“Xin lỗi, xin lỗi. Nó kì lạ vì cái dàn này có vẻ là một mẫu nhạc,
không phải một mẫu vật lí thông thường.”